Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần Bốn : Trừ Bỏ Ngũ Cái

07 Tháng Mười 201000:00(Xem: 3891)
Phần Bốn : Trừ Bỏ Ngũ Cái

PHẦN BỐN
TRỪ BỎ NGŨ CÁI

Trước nói ngũ dục là năm điều ham muốn do ngoại trần phát sinh, nay nói ngũ cái là những ý niệm không tốt che lấp tâm thức, không thấy được sáng suốt.

Ngũ cái là: tham dục, sân nhuế, thụy miên, điệu hối và nghi.

1)Tham dục cái:

Là sự che lấp do lòng tham muốn.

Phàm phu chẳng những tham muốn ngoại cảnh hiện tiền mà cả trong lúc ở một mình, cho đến trong lúc tọa thiền, cũng nhớ lại những cảnh ưa thích mà sinh lòng ham muốn.

Người tu hành cần suy xét rằng: sống theo đạo Phật là cốt để được giải thoát khỏi các sự ràng buộc thế gian, nếu tâm còn ham muốn những điều ngũ dục trong thế gian thì quyết không giải thóat được. Các điều ngũ dục, lúc chưa được mà cầu cũng khổ, khi được rồi thì lo sợ nhiều điều và đến khi mất thì buồn rầu tức bực, thật không có gì đáng gọi là vui. Các người tu theo ngoại đạo, còn cố gắng rời bỏ ngũ dục để được lên cõi trời sơ thiền, huống nữa người tu đạo giải thoát muốn ra khỏi ba cõi mà lại không trừ bỏ ngũ dục! Ba cõi như nhà lửa, ở trong nhà lửa mà còn ham chơi bời thì thật là dại dột. Vì thế, người tu hành cương quyết trừ bỏ ngũ dục, chỉ vui với thiền định, với đạo giải thóat, chứ không vui với cái gì khác. Người tu hành phải biết nếu buông lung lòng tham muốn thì không rời khỏi Ba cõi được. Nếu ưa đắm sự dâm dục thì không rời khỏi Dục giới. Nên cương quyết trừ bỏ Tham dục cái.

2. Sân nhuế cái:

Là sự che lấp do lòng hờn giận.

Kẻ phàm phu khi có người khác chọc tức mình, hoặc chọc tức người thân yêu của mình, hoặc khi nghe người khác khen ngợi kẻ thù của mình thì sanh lòng hờn giận. Hờn giận rồi sinh oán thù, làm cho tâm bực tức, rối loạn, mất sự sáng suốt. Đức Phật đã dạy: "Diệt lòng giận thì an vui, diệt lòng giận thì không lo. Lòng giận là cội gốc của các tội ác, lòng giận diệt trừ tất cả hạnh lành". Lòng giận có những tác hại như thế, nên người tu hành cần tu pháp Từ Bi, Nhẫn nhục để diệt trừ, làm cho tâm được thanh tịnh.

3. Thụy Miên cái:

Là sự che lấp do tâm sở thụy miên. Khi trong tâm mờ tối thì gọi là thụy, khi giấc ngủ mê man thì gọi là Miên. Vậy thụy miên tức là thiếp ngủ. Người thế gian sau khi làm việc mệt mỏi, cần ngủ nghiû cho lại sức để về sau có thể tiếp tục làm việc. Người tu hành khi vào thiền định thì tâm thức được nghỉ ngơi hơn cả lúc thiếp ngủ, nên không cần phải ngủ nghỉ nhiều quá. Nếu trong lúc tu thiền định mà cứ muốn thiếp ngủ thì đường tu trễ nải, không do đâu mà giác ngộ được. Mạng người vô thường, mỗi ngày càng đi gần đến cái chết, lẽ đâu tham ngủ mà tự dìm mình mãi trong bể khổ, biết bao giờ ra khỏi, trong lúc đã may mắn học được đạo giải thoát của chư Phật.

4. Điệu hối cái:

Là sự che lấp do tâm sở điệu cử và tâm sở ố tác.

Điệu cử là tâm sở kết đồng với khắp bảy thức trước, đó là một đại tùy phiền não, làm cho móng tâm từ nơi này sang nơi khác, không ở yên được một chỗ. Thân ưa múa men, đi chạy, miệng ưa ngâm nga, cải cọ, ý ưa buông lung, nghĩ việc này sang việc khác. Đó là tác dụng của Điệu cử. Điệu cử phá người tu hành làm cho không nhiếp niệm được, do đó không có thiền địnhtrí tuệ, nên cần phải trừ bỏ.

Ố tácăn năn những việc xấu ác đã làm. Người tu hành, nếu trước có phạm tội lỗi thì cần phải sám hối, và dầu tội nặng, nhưng khi đã thật tâm sám hối thì không nên lo nghĩ gì nữa để cho tâm được an vui, có khả năng tu hành theo chánh pháp. Nếu ôm lòng ăn năn mãi thì lại thành một sự trở ngại cho việc tu tập. Lại có người tu hành mà thắc mắc Điệu cử mà hóa ra ăn năn rồi không muốn tu tập nữa. Tâm sở ố tác này cũng là một trở ngại trên đường tu tập, nên phải diệt trừ.

5. Nghi cái:

Là sự che lấp do lòng nghi ngờ khiến cho tín tâm không vững chắc đối với Phật Pháp, ngăn trở sự tu tập; không có kết quả.

Nghi có ba thứ:

a)nghi mình: nghi mình căn cơ thấp kém, tội lỗi nặng nề, không thể thực hànhchỉ Quán được. Muốn trừ lòng nghi đó, cần nêu rõ tất cả chúng sanh đều có Phật tính và nên xét hiện nay gặp được Phật Pháp không phải là ngẫu nhiên mà là do nhân duyên thiện căn đời trước; thiện căn đó khó mà lường hết được. Vì thế người tu hành không nên tự khinh, nghi mình không thể tu tập Chỉ Quán được.

b)Nghi Thầy: Thấy vị Thầy có một vài chỗ thiếu sót mà nghi rằng vị đó không thể chỉ dạy Phật Pháp được. Lòng nghi nầy thường thường kèm theo với ngã mạn, rất có hại cho sự tu tập Chỉ Quán. Phật đã dạy:" Y pháp bất y nhân". Vị Thầy dẫu thế nào cũng chỉ lặp lại những lời Phật dạy mà thôi. Trong những lời Phật dạy, chỗ nào đã hiểu rõ ràng, nhận là đúng đắn thì đó là pháp thích hợp với căn cơ của mình, cần phải phát lòng tin chắc chắn, không nên vì vị Thầy mà nghi hoặc.

c)Nghi Pháp: Có người nghe được Phật Pháp, tự mình suy xét nhận là đúng đắn, nhưng lại cứ chấp chặt những ý niệm sai lầm của thế gian, đã tiến một bước lại lùi một bước, không phát sinh được lòng chánh tín. Người đó nên biết tội chướng sâu nặng của mình mà phát tâm sám hối, cố gắng suy nghĩ học tập về Phật Pháp nhiều hơn nữa để phát được lòng tin chắc chắn. Chỉ khi nào phát được lòng tin chắc chắn thì trên con đường tu tập mới mong có kết quả.

Ngũ cái là năm sự trở ngại lớn nhất trên con đường thực hành Chỉ Quán. Mặc dầu trần lao phiền não còn nhiều, nhưng trừ được ngũ cái thì tâm đã yên vui thanh tịnh và có khả năng thiết thực để tu tập Chỉ Quán.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2272)
“Tướng” là cái gì? “Tướng” chính là tướng trạng của sự vật biểu hiện nơi ngoài và tưởng tượng ở nơi trong tâm chúng ta.
(Xem: 33337)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6608)
Duy Thức Học được gọi là môn triết họcmôn học này nhằm khai triển tận cùng nguyên lý của vạn hữu vũ trụ nhân sanh mà vạn hữu vũ trụ nhân sanh...
(Xem: 6574)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 3891)
Tạo sao gọi là Phổ Môn? vì tự tính của mình phổ biến khắp hư không pháp giới, nên gọi Phổ Môn.
(Xem: 5141)
“Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âmxem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho lòng từ bi của Bồ-tát.
(Xem: 11326)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30430)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 8005)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12235)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 3307)
Một bài pháp được ban cho chư Tăng Ni ở International Mahayana Institute tại Boudhanath, Nepal, ngày 2 tháng 2, năm 1975. Nicholas Ribush hiệu đính.
(Xem: 34836)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 52294)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 13105)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 21885)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9644)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 3115)
"Niệm Phật" nghĩa là xưng danh hiệu - hay nhớ tưởng đến hình tướng, bản nguyện hay công đức của một đức Phật - như Phật Thích-ca hay Phật A-di-đà.
(Xem: 10410)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12800)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12820)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16263)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 13865)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14348)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9232)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11772)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11297)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 11541)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 12686)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 20742)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 17682)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 31877)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12038)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 11844)
Đức Thế Tôn từ nơi cung trời Đâu-suất sinh xuống thành Ca-duy, chán đời sống dục lạc ở vương cung, thành tựu đạo chơn thường dưới cội cây...
(Xem: 4343)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, Luận Tập Bộ Toàn; Kinh văn số 1678. Pháp Hiền dịch ra chữ Hán. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12775)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết bàn (Nirvana, Nibbâna).
(Xem: 10358)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1637. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 16439)
Năm nay (2016) trong chương trình của tôi, không dự định đi sang Úc, nhưng ngày 23 tháng 6 năm 2016 vừa qua...
(Xem: 11806)
Nay ở nơi chư Phật Chắp tay kính đảnh lễ Con sẽ như giáo nói Tư lương Bồ-đề Phật.
(Xem: 14822)
Lúc bấy giờ, ngài Vô-Tận-Ý Bồ-Tát (1) liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu (2), chấp tay hướng Phật mà bạch rằng:
(Xem: 12044)
Bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daijokyo) xuất xứ từ thời Vua Taisho (Đại Chánh) ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ thứ 20.
(Xem: 16871)
Có lẽ Lăng Già là một trong những bộ kinh phân tích cái Tâm một cách chi li, khúc chiết nhất trong kinh điển Phật giáo.
(Xem: 12747)
Đại Chánh Tân Tu Đại tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc Luận Tập Bộ Toàn. Kinh văn số 1641. HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 52182)
Toàn bộ Đại Tạng Kinh tiếng Việt trên 203 tập đã dịch và in xong...
(Xem: 12663)
Tại thành Xá Vệ, vào buổi sáng sớm, Tỳ-kheo-ni Avalika khoác y ôm bình bát, đi vào thành Xá Vệ để khất thực.
(Xem: 9940)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1634, HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 14519)
Dịch từ văn Phạn sang văn Trung Hoa: Pháp sư Pháp Đăng; Thật Xoa Nan Đà (Siksananda), Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 20160)
Nguyên tác Hán văn: sa-môn Pháp Tạng, chùa Sùng Phúc, Kinh Triệu thuật
(Xem: 13805)
Thời đại Dao Tần, Pháp Sư ba tạng Cưu Ma La Thập, dịch văn Phạn sang văn Trung Hoa, Lược giải: Tỳ kheo Thích Minh Điền
(Xem: 15417)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán tạng.
(Xem: 17507)
Bát Nhã Ba-La-Mật-Đa Tâm Kinhbài kinh được tụng đọc tại các chùa theo hệ thống Phật Giáo Đại Thừa, là bài kinh rất phổ thông...
(Xem: 16816)
Nhập Trung Quán Luận (PDF) - Tổ Sư Nguyệt Xứng - Chuyển dịch: Thích Hạnh Tấn, TN Nhật Hạnh
(Xem: 13500)
Luận rằng: Ông bảo lời ta không có đạo lý, nếu thế thì lời ông cũng không có đạo lý. Nếu lời ông không có đạo lý thì lời ta ắt có đạo lý.
(Xem: 12504)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh,Luận Tập Bộ Tòan thứ 32, Thứ tự Kinh Văn số 1631
(Xem: 12076)
Như Bà-la-môn nói, trong các kinh điển, bốn Vệ-Đà là chính; Lại, trong đó, niệm là chính ; lại trong niệm này, năng thuyênsở thuyên là chính;
(Xem: 13302)
Nếu hiểu được Luận này, Ắt được các pháp luận, Nghĩa sâu xa như thế, Nay sẽ rộng tuyên nói.
(Xem: 12553)
Kinh văn số 1672, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển 32
(Xem: 25618)
Duy Thức Học, người nào nếu như nghiên cứu đến cũng phải công nhận là một môn học rất thực tế, rất sống động...
(Xem: 14569)
Từ A-Di Đà, tức là phiên âm từ chữ Sanskrit: अमित​ amita, có nghĩa là: Vô lượng, đây là dịch sát theo ngữ nguyên अमित​ amita của Sanskrit.
(Xem: 28359)
Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư...
(Xem: 10312)
"Tánh Không" (còn gọi là tính-không) là một từ ngữ liên hệ đến sự giảng dạy chính yếu của mọi ngành Phật giáo, nhưng ý nghĩa thật sự của từ ngữ nầy thường bị hiểu lầm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant