Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Lời giới thiệu

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9401)
Chương 1: Lời giới thiệu

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

LỜI GIỚI THIỆU

Như tên gọi của nó, Giới Thiệu Đạo Phật của giáo sư Peter Harvey là bức tranh toàn diện về minh triết của Phật giáo. Bức tranh này phác họa bối cảnh xã hội Ấn Độtôn giáo thời đức Phật, qua đó trình bày những nét đặc thù của giáo pháp Phật.

Các học thuyết căn bản của Phật giáo như “Tứ Diệu Đế”, “Nghiệp và tái sinh”, “Thiền định và Trí tuệ” được tác giả phác họa dưới gốc độ vũ trụ luận, nhân sinh quan và đạo đức quan.

Nếu nghiệp được xem là các hành động chủ ý hoặc vô tình thì phản ứng của nó chính là kết quả đối với những cái tốt và hậu quả đối với những cái xấu. Như định luật Vạn vật hấp dẫn, hành vi của con người bao gồm: tư duy, lời nóiviệc làm có lực hút với thiên hướng kết quả tốt hoặc xấu. Tập hợp các chủng loại nghiệp, từ khi có sự sống cho đến lúc qua đời, chính là sự kết nối tái sinh. Nghiệp chính là lực hút của sinh tử. Phân tích mặt tiêu cực của nghiệp là nghệ thuật nhận diện khổ đau và gốc rễ của nó. Khi năng lực nhận diện được nhân lên thành bản lĩnh, thì xiếng xích của nghiệp sẽ được chặt đứt, lúc ấy nguồn năng lực an lạc tĩnh tại ở mức độ cao nhất “Niết Bàn” sẽ có mặt. Để làm được việc đó, con đường không thể thiếu mà các hành giả phải đi qua chính là đạo đức, thiền địnhtrí tuệ.
Lịch sử phát triển của Phật giáo bắt đầu từ lần vận chuyển bánh xe chánh pháp đầu tiên tại vườn Nai. Ba ngôi tâm linh “Phật, Pháp, Tăng” được hình thành. Đời sống đạo đức được thiết lập. Con đường giải thoát rộng mở và đón chào mọi người.

Tác giả đã phác họa lịch sử phát triển của đạo Phật Ấn Độ sau thời Phật nhập diện với đỉnh cao nhất là triều đại “Gupta”. Chủ trương và chính sách truyền bá chánh pháp của đại đế Asoka là bài học về nghệ thuật và kết quả hoằng pháp mà các nhà hoằng pháp hiện đại không thể không tham khảo. Nhờ vào chính sách truyền bá đó, đạo Phật không chỉ là đặc sản tâm linh của Ấn Độ, đã nhanh chóng trở thành ánh sáng của Á châu.

Theo tác giả, truyền thống tâm linh của Bắc tông (thường ngộ nhậnĐại thừa) và truyền thống tâm linh Nam tông (thường ngộ nhậnTiểu thừa) chính là hai con đường tiếp biến văn hóa, một bên là thích ứng để phát triển, một bên là duy trì để phát triển. Duy trìthích ứng là hai phương diện của phát triển trong quá trình tiếp biến văn hoá của đạo Phật, nhờ đó ảnh hưởng của Phật giáo đã tác động tích cực đến các phương diện và ngành nghề trong xã hội nơi đạo Phật có mặt như những thực tại văn hóa tâm linh. Kho tàng văn chương và minh triết Phật giáo đã làm phong phú thêm văn học và triết lý của các quốc gia. Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc qua lịch sử đồng hành của Phật giáo đã góp phần giữ vững hồn thiêng sông núi. Kiến trúc nghệ thuật ở các quốc gia có mặt đạo Phật đều ít nhiều chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các giá trị văn hóa của đạo Phật.

Nền triết học Đại thừa với điểm nổi bật của văn học Bát Nhã, Hoa Nghiêm, Pháp HoaNiết Bàn là cả kho tàng triết lý nhập thế, đáp ứng nhu cầu tri thứctriết học của tầng lớp tinh hoa xã hội. Các trường phái chính của đại thừa như Trung QuánDu Già đã được thảo luận cặn kẻ trong tác phẩm. Nếu triết học “tánh không” như nghệ thuật phá chấp tất cả những gì gọi là cái tôi thường hằng hay đoạn diệt, cá nhân hay xã hội, quốc gia hay liên minh quốc gia, thì học thuyết Như Lai tàng của triết học Du Già chính là nghệ thuật nhận diện tiềm năng giác ngộ trong tình huống của chúng sanh hay người phàm. Nhận diện được thai tạng Như Lai, thì con người có khả năng vượt qua mặc cảm tự ti của người phàm, từ đó tinh tấn đạt được những gì chưa đạt. Trong thành quả mà không bị vướng kẹt, trong thăng hoa mà không bị cái tôi chi phối, hành giả đang đạt được trí tuệtánh không vốn có khả năng tháo dở mọi chấp trước.

Bên cạnh các học thuyết và triết lý của các trường phái Phật giáo, tác giả đã phân tích phương diện sùng báitín ngưỡng vốn chịu ảnh hưởng sâu rộng từ văn hóa bản địa. Các hoạt động văn hóa như tụng kinh, lễ Phật, cúng kiến, thờ phụng hình tượng đã có chiều dày lịch sử từ khi đức Phật qua đời. Các lễ hội văn hóa tín ngưỡng Bồ Tát Quan Âm như đức mẹ từ bi, Phật A Di Đà như bậc đại giácTây phương cứu thế, Phật Dược Sư như thầy thuốc trị bệnh thân tâm v.v… đã được phân tích từ gốc độ tiếp biến văn hóa.

Theo tác giả, căn bản nhất của đời sống tâm linh Phật giáo chính là đạo đức. Đạo đức có nhiều gốc độ: thuận hợp các quy chuẩn luật pháp, rèn luyện tâm ý và nuôi dưỡng động cơ tích cực cho mọi hành động và mục đích vốn được xem là cẩm nang hành xử của người Phật tử. Nếu đạo đức của người tại gia được đặt trên nền tảng thuận Hiến, hợp pháp nhằm xây dựng các hình thái bình đẳng và công bằng xã hội thì đạo đức xuất gia nhấn mạnh đến động cơ thái độ của tâm ý, nhằm chuyển hóa đến tận gốc rễ nỗi khổ niềm đau tiềm ẩn. Hai loại hình đạo đức vừa nêu đều có giá trị xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

Tinh hoa của triết lý đạo Phật, theo tác giả là sự thực tập thiền định để phát huy trí tuệ. Các phương pháp thiền định truyền thống như bốn lĩnh vực quán niệm, mười sáu hơi thở với trọng tâm chánh niệm và tỉnh thức đã được phân tích dưới gốc độ tâm lý trị liệu. Các phương pháp thiền định phổ biến trong đạo Phật như chỉ và quán và các chi phái thiền phổ biến ở Trung Hoa như Thoại ĐầuCông Án được xem là những phương tiện để tỏ ngộ được chân tâm thường trú, thể tính tịnh minh. Phương pháp thiền truyền thống và phát triển tuy có khác nhưng mục đích trị liệu khổ đau và hướng đến niết bàn thì cả hai thống nhất. Phương pháp hành trì của Tịnh độ tôngquán tưởng của Mật tông nên hiểu như những phương tiện hữu hiệu trong việc chuyển hóa thân tâm. Thiền, Mật và Tịnh là ba trong phương pháp tu tập nhưng là một trong cứu cánh.

Sự tiếp nối truyền thống và những đa dạng hiện tại từ cái nhìn phân tích của tác giả là sự tương dung và bổ sung. Đọc tác phẩm “Giới thiệu đạo Phật”, ngoài tấm bản đồ toàn diện như vừa nêu, người đọc tự mình khám phá những chân lý xâu xa nhưng bình dị, những lời kinh triết lý nhưng gần gũi, những chân lý thâm sâu nhưng dễ hành, vừa là tinh hoa của đạo Phật nhưng cũng là mục đích của đời sống hạnh phúc. Ngôn từ trong bản dịch mặc dù mới và đôi lúc có phần xa lạ với các thuật ngữ Phật học Hán Việt truyền thống, chẳng những không làm chúng ta khó hiểu bản dịch, ngược lại giúp cho người đọc làm quen các khái niệm mới tương đương với các thuật ngữ truyền thống. Trên tinh thần này, tôi trân trọng kính giới thiệu tác phẩm đến quý độc giả.

Giác Ngộ, ngày 13/05/2009

Thích Nhật Từ 
Phó viện trưởng HVPGVN tại TP.HCM

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22994)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22513)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21782)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21208)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21804)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22267)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23646)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20469)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20080)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21970)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24787)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19024)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24020)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27797)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26564)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38187)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18820)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18454)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20014)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19075)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23212)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22960)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18746)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15873)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18881)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19710)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20196)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19979)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18150)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16449)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16950)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39302)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26125)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20136)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18881)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24104)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29181)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22931)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31003)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21045)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26891)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20714)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26292)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23363)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19845)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15854)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19886)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29012)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20721)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19473)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30552)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36478)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33283)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35615)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21027)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21948)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25296)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25825)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant