Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 25: Giành lại mảnh đất xưa

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9231)
Chương 25: Giành lại mảnh đất xưa

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

Chương 25
GIÀNH LẠI MẢNH ĐẤT XƯA

Nam Dương (Indonesia)

Sự viếng thăm của các nhà theo thuyết thần trí Tây phương ở Nam Dương vào năm 1883 đã đánh thức lại sự yêu thích Phật giáo nơi người Trung Hoa, chiếm ba phần trăm dân số, và người Nam Dương Hồi giáo chiếm số đông, lúc nào cũng ham thích sự huyền bí. Các cuộc truyền bá Phật pháp từ Tích Lan (1929) và Miến Điện (1934). Vào năm 1955, Ashin Jinarakkhita, một tăng sĩ Trung Hoa được thọ giới ở Miến Điện, trở lại Nam Dương. Các tu viện Phật giáo Nam tông được xây dựng, được giúp đỡ vì sự yêu thích được đánh thức bởi ngày lễ của Đức Phật Jayanti. Việc thọ giớivô số cuộc cải đạo đã diễn ra nơi dân chúng của miền đông Java, họ vẫn còn bám chặt vào thuyết hổ lốn thần Śiva-Phật giáo, giống như người Trung Hoa. Vào năm 1965, vì cuộc đảo chánh có tính cách Cộng Sản, chính phủ cấm tất cả mọi hội đoàn nghi ngờ hoặc phủ nhận sự hiện hữu của Thượng đế

Đây tạo nên một vấn đề 
cho Phật giáo Nam tông “vô thần”. 

Ngài Jinarakkhita đề nghị “Thượng đế” của Phật tửĐức Phật Ādi, một vị Phật Nguyên Thủy của vùng nầy trong Phật giáo Mật tông, trong khi những người theo phái Phật giáo Nam tông chính thống cho rằng Niết Bàn (Nibbāna), cái “vô sanh”, là “Thượng đế” của họ. Nói chung, ngài Jinarakkhita ủng hộ Phật giáo đã phần nào bị hỗn hợp. Trong khi Phật giáo Nam tông chiếm phần lớn về việc giảng dạy, Phật giáo Nam tông sử dụng vài bài văn tiếng Sanskrit và Java, gồm có sự liên quan đến các vị Phật và Bồ-tát (Bodhisattva) của Đại thừa (Mahāyāna) trong việc lễ lạy, và rút ra những yếu tố lễ nghi của Phật giáo Trung Quốc. Sự gia tăng về hoạt động của Phật tử ở Nam Dương đã đưa đến một hoạt động lớn hơn nơi Phật tử Trung Hoa và một sự hồi sinh nơi thần Śiva-Phật giáo cũng có mặt ở đảo Bali. Cuộc truyền giáo của người Thái đã củng cố nhiều truyền thống Phật giáo Nam tông vào năm 1970, và bắt đầu có một Tăng đoàn với các tăng sĩ dân bản xứ. Vào năm 1977, có khoảng từ hai cho đến ba triệu người dân Phật tử ở Nam Dương.

Ấn Độ 

Bắt đầu thế kỷ thứ mười chín, các học giả Ấn Độ và Tây phương học hỏi về gia tài Phật giáo của Ấn Độ xuyên qua khảo cổ học và sự tìm tòi kinh sách. Từ năm 1890, các tác phẩm Phật giáo nổi tiếng xuất hiện, và nhà văn Rabindranath Tagore đã thêm vào những đề tài Phật giáo trong các bản kịch của ông. Hội đoàn Đại Bồ đề (Mahā Bodhi Society) của Dharma-pāla phát triển những trung tâmvô số thành phố và giúp nâng cao sự chú tâm về Phật giáo Ấn Độ. Phật giáo dần dà đã làm một số người Ấn có học thức cải đạo, và một hội viên cũ của Hội đoàn MBS đã làm việc cải đạo cho những người thuộc thành phần hạ cấp ở miền nam. Vào những năm 1920 và 1930, Hội MBS liên kết với những bài viết của nhóm học giả trí thức. Việc nghiên cứu học thuật và những bài viết phổ biến của ba tăngẤn Độ nổi tiếng, R. Sankrityayan, A. Kausalyayan và J. Kashyap.
Niềm yêu thích Phật giáo Ấn Độ được khơi dậy, đã đưa đến việc xuất bản vô số sách về tôn giáo
Vài nhà trí thức thế tục trở nên thích thú với chủ nghĩa “duy lý”, và vì chủ nghĩa nầy không ủng hộ sự phân biệt giai cấp, nhưng thường thì họ không chính thức trở thành Phật tử. Phật giáo thường được xem như là một phần của Ấn giáo, mà họ tin tưởng mạnh mẽ vào bản chất tự nhiên của xã hội

Vị thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập, Jawaharlal Nehru, là một nhà Phật tử “trí thức”. Phần lớn giới nầy thường ở giai cấp trung lưu, của những sát nhập tôn giáo khác nhau, họ cũng tham dự vào “những trại thiền” mười ngày. Nơi đây dạy thiền Vipassanā như là một phương cách để sống một cuộc sống hài hòa, và có thể được xem là một dạng của Phật giáo hiện đại.

Phần đông các Phật tử “mới” ở Ấn Độ là những hội viên cũ của các giai cấp “không được chạm đến”, là những người theo Giáo sư B. R. Ambedkar (18921-1956). Những người Phật tử “Ambedkar”, có con số khoảng 4,5 triệu, phần lớn tập trung ở miền Tây của tiểu bang Maharashra, nơi mà họ chiếm khoảng 7 phần trăm dân số. Những giai cấp không được chạm đến được gọi là “những giai cấp bị sắp đặt” từ năm 1935, gồm một nhóm tiện dân bị xã hội ruồng bỏ về mặt kinh tế theo truyền thống, họ bị đặt dưới cả thành phần nô lệ (Śūdras) trong xã hội Ấn giáo. Họ làm những công việc nhơ nhớp như quét rửa đường xá, và bị khinh khi, nhất là bị giới Bà-la-môn coi rẻ hơn con người.
Ambedkar, dù là một người nằm trong giai cấp không được chạm đến, đã xoay sở để có được một nền học vấn ở Ấn Độ và ở nước ngoài. Ông trở thành một luật sư và từ năm 1920, hoạt động cho việc giải phóng những người ở giai cấp không được chạm đến trong nấc thang thấp của Ấn giáo. Ông thấy rằng có rất nhiều cái ác trong xã hội Ấn Độ, và ông xem hệ thống giai cấp là gốc rễ của tất cả những xấu ác. Vào năm 1936, ông thành lập Liên Đoàn Những Giai Cấp được Sắp Đặt (Scheduled Castes Federation) để khắc phục quyền lực chính trị của các người Bà-la-môn, mà ông thấy rằng chính họ là nền tảng của hệ thống giai cấp. Là một vị thủ tướng luật pháp của chính phủ sau lần đầu tiên độc lập, ông bảo đảmhiến pháp bảo vệ những quyền lợi của các hội viên trong giai cấp bị sắp đặt.

Vào năm 1935, Ambedkã tuyên bố ông sẽ từ bỏ Ấn giáo cho một tôn giáo mới, và đây là một cách tiến triển cho các hội viên giai cấp bị sắp đặt. Ông được mời gọi đến với những tôn giáo khác, nhưng ông từ chối Thiên Chúa giáoHồi giáo vì gốc gác của các tôn giáo nầy không thuộc về dân Ấn, và vì các hội viên Ấn của hai tôn giáo Thiên chúa và Hồi cũng bị ảnh hưởng với thái độ giai cấp. Ông cũng nhận thấy rằng Thiên Chúa giáotính cách cá nhân và không thích Hồi giáo vì đạo nầy có khuynh hướng cố chấpép buộc sự tách biệt đối với phụ nữ trong tục che mặt (purdah). Đồng thời ông cho rằng Phật giáo là một tôn giáo bình đẳng và duy lý, nhấn mạnh về tình thương yêu, công bằngtự do tâm linh. Ông muốn tránh những việc như tiêu phí về những hoạt động tạo “công đức”, tuy nhiên, ông cho mình là một người “Phật tử mới”. Đối với ông, Phật giáo là một chân lý xã hội, mà Đức Phật đã có ý định là các tăng sĩ là những người mang đuốc chân lý cho một xã hội mới lý tưởng. Vì thế các tăng sĩ phải là “những nhà hoạt động xã hộiđồng thời là những nhà truyền giáo”, giống như các vị giáo sĩ Thiên Chúa giáo. Việc giảng dạy về giáo pháp của Phật là một cách để mang đến cho con người sự tự trọng, và một nền dân chủ cho xã hội. Vào năm 1956, Ambedkar và khoảng 500.000 hội viên giai cấp bị sắp đặt đã cải đạo và đến với Phật giáo trong buổi lễ “quy y” công khai. Những buổi lễ cải đạo sau đó tiếp diễn, và vẫn còn tiếp tục dù trên một bình diện nhỏ hơn. Phật giáo của Ambedkar chú trọng vào sự đổi mới đạo đức của cá nhânxã hội. Nhấn mạnh về lòng kính ngưỡng, nhưng không nhấn mạnh về thiền định, và Ambedkar được chấp nhận là “nơi nương tựa” thứ tư, và được xem là một vị Bồ-tát (Bodhisattva). Những bài giảng Phật giáo của Ambedkar cũng giống như những bài giảng của Phật giáo Nam tông hiện đại.

Sự cải đạo có nghĩa là các Phật tử Ambedkar đã khắc phục được ý nghĩa tính chất thấp kém, và kinh nghiệm về lòng tự trọng của họ được nâng cao lên. Họ sốt sắng trong việc tiến bộ về học vấn, và kinh nghiệm kinh tế được tốt đẹp hơn, thí dụ bằng cách giảm bớt nhiều cho chi phí hôn lễ theo truyền thống. Những người Phật tử của thế hệ đầu tiên đã có nhiệm vụ phát triển sự hiểu biết về tôn giáo mà họ vừa thích nghi, nhiệm vụ nầy không phải là không khó khăn ở buổi ban đầu

Các viên chức cư sĩ đã từng học tập trong vòng sáu tháng đã dẫn đầu phần lớn về hoạt động nầy. Vào năm 1970, có khoảng bốn mươi tăng sĩ , nhưng các việc học tập không đúng tiêu chuẩn, vì thế chỉ có một số ít là có học thức. Các Phật tử Ambedkar phần đông thường là các hội viên cũ của giai cấp Mahar và Jatar, và thật ra bây giờ có chiều hướng bị xem là một giai cấp mới (thấp): dù họ chưa làm vỡ được khuôn đúc. Tuy vậy, con số Phật tử Ambedkar cũng đang tiếp tục gia tăng

Các người Phật tử hành hương từ những nước khác nhau bây giờ thăm viếng những nơi có liên quan đến cuộc sống của Đức PhậtẤn Độ , đặc biệt là Bodh-Gayā, nơi mà Đức Phật thành đạo. Nơi đây, có một tu viện lớn của Tây Tạng, một ngôi chùa Nhật Bản và một trường học cho trẻ em trong vùng, một ngôi chùa Thái, một nhà nghỉ được điều hành bởi các tăng sĩ Tích Lan của hội MBS, một tu viện của Miến Điện, và một ngôi chùa nhỏ của Trung Hoa. Các dân làng quanh vùng bắt đầu hướng về Phật giáo. Trong một ý nghĩa quan trọng, Phật giáo đã bắt đầu ở Bodh-Gayā, và điều nầy rất thích hợp và nơi đây bây giờ là một thế giới vi mô của thế giới Phật giáo

Phật giáo vượt xa hơn Á châu

Quyền lực Âu châu lan rộng đến Á châu, đặc biệt là ở Ấn Độ, sự hiểu biết về những tôn giáo Á châu trở nên nền móng đứng đắnhoàn toàn hơn. Sự thay đổi ý nghĩ của Âu châu cũng đưa đến việc cởi mở chấp nhận những ý tưởng từ các tôn giáo phi-Thiên Chúa giáo. 

Vào thế kỷ thứ mười tám, sự thức tỉnh được nhấn mạnh về mặt “lý trí” và “khoa học” đã làm suy yếu sự nương tựa vào quyền lực “mặc khải” trong những việc có tính cách tôn giáo, và một số người nghĩ rằng họ nhìn thấy mọi người trong những nền văn hóa khác nhau đều có chung một “tôn giáo thiên nhiên”, nhưng được bày tỏ rõ ràng nhất là Thiên Chúa giáo. Vào thế kỷ thứ mười chín, những tiến bộ về địa chất học và việc học tập Kinh thánh đã làm suy yếu việc giải thích Kinh thánh theo nghĩa đen, và những khái niệm về vô số sự tiến hóatính cách sinh vật học dường như đã bao phủ nhiều nghi ngờ về việc tạo thiên lập địa trong Thiên Chúa giáo. Trong ý nghĩa nầy, ý tưởng làm nên một cuộc nghiên cứu về tất cả các tôn giáotính cách “khoa học”, “có thể so sánh được” đã được đề ra.

Những yếu tố nầy đã tập hợp lại vào hai mươi năm cuối của thế kỷ thứ mười chín, nơi đây có sự hâm mộ Phật giáo “hiện đại” trong những thành phần của giới trung lưu ở Mỹ, Anh và Đức. Như Thiên Chúa giáo, Phật giáo có một hệ thống đạo đức cao quý nhưng đây là một tôn giáo về sự tự giúp, không nương tựa vào Thượng đế hay các thầy tế lễ. Giống như khoa học, Phật giáo dựa vào kinh nghiệm, thấy vũ trụ được vận hành theo một quy luật, và không xem con người hay thú vậttriệt để khác nhau. Nhưng cho những người có sở thích về sự huyền bí, thì Phật giáo mang đến một cái gì đó nhiều hơn là khoa học.

Sự uyên bác

Những bài giảng Phật giáo đầu tiên được thực hiện bằng tiếng Sanskrit [phần lớn là Đại thừa (Mahāyāna)] từ Nepal, được một người Anh tên là B.H. Hodgson kết tập. Nhà học giả người Pháp Eugène Burnouf dùng những bài văn nầy để sản xuất một quyển sách của ông “Giới thiệu lịch sử Phật giáo Ấn Độ” [Introduction à l’histoire du Bouddhisme indien(1845)], và một bản dịch của Kinh Pháp hoa (Lotus Sūtra) (1852).

Tích Lan, các giáo sĩ bắt đầu học về giáo pháp Phật, dù quan niệm méo mó của họ cho rằng truyền thống Nam tông là một tôn giáo chán đờithiếu sótVào khoảng năm 1800, các học giả người Anh, Đức và Scandinavian đã điều chỉnh lại điều nầy, như V. Fausboll, đã chọn lọc quyển Kinh Pháp Cú (Dhammapada) và chuyển dịch kinh nầy sang tiếng La-tinh vào năm 1855. Hai bài tường thuật nổi tiếng về đời sốnggiáo pháp của Đức Phật dựa vào những tài liệu tiếng Pali, đó là quyển Đức Phật, Đời sống, Giáo pháp, Tăng đoàn (1881, bằng tiếng Đức) (The Buddha, His Life, His Doctrine, His Community) của Hermann Oldenberg,và quyển Phật giáo (Buddhism) (1878) của T. W. Rhys Davids, người đã từng phục vụ việc hành chánh trong vòng tám năm ở thuộc địa Tích Lan

Bên Anh cũng vậy, ông F. Max Muller, người Anh, gốc Đức chọn lọc năm mươi mốt bộ Những tập Sách Thiêng Liêng của Á châu (Sacred Books of the East series) (1879-1910), chứa đựng những bản dịch của một số bài văn Phật giáo. Ở Mỹ, Henry Clarke Warren, người cùng sáng lập Harvard Oriental Series (1891), và sản xuất những bản dịch hợp tuyển tuyệt hay từ Bộ Kinh Pali, Phật giáo nơi những Bản dịch (Buddhism in Translations) (1896). Đặc biệt quan trọng nhất là hoạt động của Hội đoàn ấn bản Pali (Pāli Text Society) do ông Rhys Davids (1843-1922) sáng lập ở Anh quốc vào năm 1881. Mục đích của hội là phát hành những bản bình luận, bằng chữ La Mã, của các bài giảng trong Kinh Pali và những lời chú thích, cùng với những bản dịch. Sự thích thú tìm hiểu về Bộ Kinh Pali xuất hiện vì nơi đây được xem là gìn giữ “những bài giảng chính gốc” của Đức Phật , được xem là một người Thầy đạo đức và duy lý, với những yếu tố siêu tự nhiên, những điều có tính cách lễ nghi được xem là phần thêm vào sau nầy. Sự hợp tác quốc tế giúp cho hội PTS (Pāli Text Society) xuất bản phần lớn các bài của Bộ kinh bằng tiếng Pali vào năm 1910, và vào năm 1989, hội đã xuất bản 176 bộ kinh và 74 bản dịch, cùng với những tác phẩm giúp cho việc học tập kinh điển.

Vào đầu thế kỷ thứ hai mươi, những bài kinh bằng tiếng Tây Tạng và Trung Hoa được học tập. Ở Nga, T. Stcherbatsky, một học giả triết lý Phật giáo, đã lãnh đạo một đội học giả xuất bản những tác phẩm như “Khái niệm Phật giáo và Ý nghĩa của chữ Pháp” (Conception of Buddhism and the Meaning of the Word Dharma) (1923), và “Lô-gích Phật giáo” (Buddhist Ý thức hệ) (1930). Những học giả khác, phần lớn là người Pháp và người Bỉ, học hỏi về những khía cạnh tôn giáolịch sử của Đại thừa (Mahāyāna), với L. de La Vallée Poussin sản xuất những bản dịch Thắng Pháp (Abhidharma-kośa) và những tác phẩm chánh của Du già tông (Yocāgāra). Sự hiểu biết về Zen Phật giáo được giúp đỡ nhiều do những bài viết nổi tiếngtính cách học giả của Giáo sư D. T. Suzuki, thí dụ những bài luận về Thiền Phật giáo, Tập I (1927) (Essays in Zen Buddhism, First Series).

Từ lúc Đệ Nhị Thế Chiến, các học giả như E. Lamotte (1903-83) tiếp tục trường học Pháp-Bỉ. Những tiến bộ trong sự học tập về Phật giáo Bắc tông được thực hiện bằng những cuộc du lịch và những bài dịch của G. Tucci, người Ý, trong khi những học giả Nhật và Ấn đã có những đóng góp quan trọng đối với việc học hỏi Phật pháp quốc tế. Sự khám phá về những bài kinh từ Trung Tâm châu Á được xem là nhiều như cát, và những ngôi chùa trong hang động ở Tun-huang, Trung Quốc, cũng đã mở ra những phạm vi mới cho việc nghiên cứu. Edward Conze (1904-79) tiến hành sự học hỏi về văn chương Bát Nhã (Perfection of Wisdom), và quyển sách Phật giáo (Buddhism) của ông (1951), Những Bài Văn Phật giáo qua nhiều thế hệ (Buddhist Texts Through the Ages) (1954), Kinh Phật giáo (Buddhist Scriptures) (1959), và Ý nghĩ Phật giáoẤn Độ (Buddhist Thought in India) (1962), đã gieo rắc sự hiểu biết về Phật giáo. Từ năm 1960, việc học tập về Phật giáo đã được thiết lập trong các trường đại học phương Tây.

Các học giả Tây phương vì vậy đã giữ một vai trò quan trọng trong việc mang lại kiến thức Phật giáo cho phương Tây. Điều nầy được bày tỏ trong các tác phẩm uyên bácnổi tiếng và trong những cuộc triển lãm về đồ cổ và nghệ thuật Phật giáo. Một cách gián tiếp, điều nầy cũng đưa đến những luận bàn về Phật giáo trên truyền hình và đài phát thanh. Các tác phẩm về Phật giáo bây giờ đã được các nhà in Phật giáo sản xuất hàng loạt. Ở Mỹ có các nhà xuất bản như Shambhala, Dharma và Snow Lion Publication, và ở Anh có Wisdom và Tharpa Publications.

Ảnh hưởng Phật giáo 
qua văn chươngtriết học

Phật giáo qua một nguồn khác đã lan truyền đến Tây phương qua hoạt động của vài nhà văn và triết gia. Ở Đức, Arthur Schopenhauer (1788 – 1860) đã kinh ngạc khi nhận thấy những tương đương giữa triết lý của ông và những lý tưởng của Phật giáo và Ấn giáo mà ông đã phần nào đúc kết thành một. Tác phẩm chánh của ông, “Thế giới như Ý chí và Điển hình” (The World as Will and Representation) (1818 và 1844, tiếng Đức), chứa đựng vô số tham khảo liên quan đến Phật giáo, đặc biệt là trong tập hai, trong khi các giáo sĩ Thiên Chúa giáo phê bình sự “yếm thế” của Phật giáo, Schopenhauer xem Phật giáotôn giáo hay nhất, ông thấy đây là sức mạnh của Phật giáo, khi chấp nhận một cách thực tế sự hiện hữu của khổ đau trong thế gian. Sự yêu thích Phật giáo của Schopenhauer đã ảnh hưởng đến Wagner trong sáng tác nhạc kịch của ông, “Tristan và Isolde” (Tristan and Isolde) (1855). Vào khoảng năm 1830 và 1840, những nhà văn Mỹ theo thuyết tiên nghiệm, R. W. Emerson và H. D. Thoreau cũng nhờ đến những đề tài Ấn ĐộTuy nhiên, để phát triển triết lý có tính cách cá nhân, trực giác và đa thần, phần lớn các tư liệu gốc của họ đều bắt nguồn từ Ấn giáo.

Ở Anh quốc, ngài Edwin Arnold, chủ bút của tờ báo Điện Tín Hằng Ngày (Daily Telegraph), xuất bản quyển “Ánh Sáng Á Châu” (Light of Asia) (1879), một bài thơ kể về cuộc đời Đức Phật. Quyển sách nầy đã đưa đến sự yêu thích khắp nơi về Phật giáo, như nơi các giai cấp trung lưu ở Anh và Mỹ quốc, và giúp cho sự hồi sinh của Phật giáoTích Lan. Arnold là một người Thiên Chúa giáo tự do, rất thích thú với Phật giáo. Bài tường thuật của ông với phương cách phong phú, đa cảm, gây ấn tượng sâu sắc, đã miêu tả Đức Phật như là một nhân vật có những điểm tương đồng với Jesus. Vào năm 1885, Arnold viếng thăm Bodh-Gayā và rồi du lịch sang Tích LanNhật Bản để cổ động sự ủng hộ về việc trùng tu di tích nầy và những thánh địa khác. Điều nầy đã làm cho Anagārika Dharmapāla phải viếng thăm địa điểm nầy, và sau đó ông thành lập Hội đoàn Đại Bồ Đề (Mahā Bodhi Society).

Các tiểu thuyết của nhà văn Đức Hermann Hesse sử dụng những đề tài Phật giáo, nhất là quyển sách Siddhartha (1922) có ảnh hưởng rất sâu rộng, và Carl Jung, nhà phân tâm học, người Thuỵ Sĩ, đã tìm thấy những tương đồng giữa những giấc mơ có tính hiệu và những Mạn-đà-la (maṇḍalas) của Tây Tạng. Vào năm 1950, quyển sách The Dharma Bums và On the Road của Jack Kerouac thấm đậm những đề tài Zen vào trong văn hóa hỗn loạn của phong trào Beat (Beat sub-culture). 

Sách của Aldous Huxley, “Các cánh cửa khái niệm và Thiên đàng và Điạ ngục” (The Door of Perceptions and Heaven and Hell) (1956) đã khơi dậy sự yêu thích về thiền Đông phương bằng cách (một cách sai lầm) so sánh sự giác ngộ với những kinh nghiệm dưới ảnh hưởng của các chất gây ra ảo giác, mescaline. Vào năm 1960, thành phần liên kết nầy đã giúp cho Phật giáo được nhiều người chú ý tới, dưới ảnh hưởng của phong trào Híp-pi (Hippie).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22992)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22502)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21777)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21203)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21793)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22260)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23641)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20466)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20072)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21960)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24780)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24014)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27790)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26558)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38180)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18817)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18449)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20010)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19066)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23205)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22955)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18737)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15865)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19708)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20183)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19972)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18144)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16444)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16946)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39299)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26118)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20131)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18880)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24099)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29175)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22926)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30991)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21043)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26885)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20701)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26286)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23356)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19840)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15849)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19882)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29003)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20718)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19470)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30551)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36476)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33275)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35612)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21014)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21947)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25285)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25820)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant