Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 27: Phụ lục: Các tác phẩm kinh điển

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9556)
Chương 27: Phụ lục: Các tác phẩm kinh điển

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

PHỤ LỤC:
CÁC TÁC PHẨM KINH ĐIỂN

Bộ Kinh Pali được gọi là Tipiṭaka, hoặc “Ba giỏ”, vì các bài kinh được ghi chép trên những lá cọ và được đựng trong ba giỏ khác nhau. Bộ Kinh gồm có Vinaya-piṭaka, hoặc “Giỏ Giới Luật (Tu viện)”, và Sutta-piṭaka, hoặc “Giỏ của những bài giảng”, và Abhidhamma-piṭaka, hoặc “Giỏ đựng những bài giảng xa hơn”. Nội dung của Giới Luật (6 bộ) và Bài Luận (Abhidhamma) (7 bài văn trong 13 bộ và một bản ấn hành) được thảo luận ở trang 224 ff. và 83 ff. Nội dung của Sutta-piṭaka như sau (con số bộ kinh là những số ấn bản của nhà in PTS):

Dīgha Nikāya, hoặc “Kết tập” gồm 34 (bài giảng) “Trường bộ kinh” (3 bộ) . 

Majjhina Nikāya, hoặc “Kết tập” của 150 (bài giảng) “Trung bộ kinh” (3 bộ).

Saṃyutta Nikāya, hoặc “Kết tập” của 7.762 (bài giảng) “Tương ưng bộ kinh” gồm 56 phần (Saṃyutta) tùy theo đề tài (5 bộ).

Aṅguttara Nikāya, hoặc “Kết tập” của 9.550 (bài giảng) “Tăng nhất bộ kinh” góp lại tùy theo số tiết mục có trên những danh sách (từ một đến mười một) mà các bài giảng nói đến (5 bộ).

Khuddaka Nikāya, gồm có 15 “Tiểu bộ kinh” trong 20 bộ. Đây gồm cả những bài giảng lặt vặt khác, phần lớn nằm trong thể thơ vần, chứa đựng những bài của Bộ Kinh lúc ban đầu và lúc sau nầy :

Khuddaka-pāṭha, một kết tập ngắn của “những bài đọc nho nhỏ” để học thuộc lòng.

Dhammapada, hoặc “những câu thơ về Pháp”, một kết tập phổ biến của 423 câu thơ súc tích về vấn đề đạo đức tự nhiên. Sự phổ biến của kinh nầy được phản ảnh trong vô số lần phiên dịch ra nhiều ngôn ngữ Âu châu.

 Udāna, 80 bài kinh (Suttas) ngắn lấy hứng khởi từ “những câu thơ được nâng cao”.

 Itivuttaka, hoặc “Được nói như thế nầy”: 112 bài kinh (Suttas) ngắn .

Sutta-nipāta, “Tập bộ kinh”, một kết tập kinh của 71 câu thơ, gồm có những tài liệu rất xưa như Aṭṭhakavagga.

 Vimāna-vatthu, “Thiên cung sự” nói về những tái sinhcõi trời.

 Peta-vatthu, “Ngạ quỷ sự” nói về những tái sinh ở cõi ma quỷ

Thera-gāthā, “Trưởng lão tăng kệ” nói về một số tăng sĩ đầu tiên làm thế nào đạt được giác ngộ.

Theri-gāthā, y như (h), nói về các vị ni.
 
Jātaka, một kết tập của 547 “Câu chuyện tiền thân” của Đức Phật, với mục đích đề ra những điểm đạo đức. Những câu chuyện được kể ra đầy đủ với lời bình, dựa vào những câu thơ kinh; tổng cộng có tất cả là 6 bộ. Trong khi kinh nầy một phần tương đối muộn màng, có thể trộn lẫn với vô số câu chuyện dân gian Ấn Độ, kinh nầy rất là phổ biến và thường được sử dụng trong những bài giảng.
 
Niddesa, “Bài bình luận” về một phần của (e).
 
Paṭisambhidā-magga, một phân tách kiểu bài luận (Abhidharma), về vài điểm trong học thuyết (2 bộ).

Apadāna, “Thí dụ kinh”, những câu chuyện tiền thân của các vị tăng và ni trong (h) và (i).
(n) Buddhavaṃsa, “Sử biên niên của các vị Phật”, nói về 24 vị Cổ Phật.
(o) Cariyā-piṭaka, “Giỏ hạnh kiểm”, về đức hạnh của Đức Phật Gotama trong những kiếp trước, xây dựng lần lần “những sự hoàn hảo” của một vị Bồ-tát (Bodhisatta).

Bộ kinh tiếng Hán được gọi là Ta-Ts’ang-ching, hoặc “Đại Tạng Kinh”. Bản ấn hành căn bản hiện đại, tiếp theo một hàng ngũ phi-truyền thống dựa vào sự hệ thống hóa của các học giả, như Taishō Daizōkyō, xuất bản ở Nhật từ năm 1924 đến năm 1929. Nó gồm có 55 bộ chứa đựng 2 184 bài văn, với 45 bộ phụ. Nội dung gồm có:

Những bài dịch của A hàm (Āgama) (tương đương vói bốn Nikāyas đầu của bộ Pali, và một phần của một phần năm) và Kinh tiền thân (Jātakas) (219 bài trong 4 bộ).

Những bài dịch của kinh Đại thừa (Mahāyāna Suttas), đôi khi gồm có vô số bản dịch của chung một bài. Những bài nầy được phân ra thành những đoạn như sau : Trí tuệ Bát Nhã (Perfection of Wisdom) (xem tr. 95ff.), Kinh Pháp Hoa (Lotus Sūtra) (xem tr. 92ff.), Kinh Hoa Nghiêm (Avvataṃsaka) (xem tr. 118 ff.), Kinh Bảo Tích (Ratnakūṭa) (một số bài gom lại, một vài bài rất xưa, như Kinh Đại Ca Diếp Hội (Kāśyapa-parivarta), Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahā-parinirvāṇa) (nói về những ngày cuối của Đức Phật , và nói về “Phật tính”), “Đại Hội”, và những bài kinh (Suttas) thông thường (phần lớn là Đại thừa) (627 bài văn của 13 bộ).

Những bài dịch về Mật tông (Tantras) (xem tr. 133 ff.); 572 bài trong 4 bộ).

Những bài dịch đa dạng về Luật ở buổi đầu (Vinayas) (kỷ luật tu viện) và vài bài phát hoạ về “kỷ luật” cho những vị Bồ-tát (Bodhisattvas) (86 bài văn trong 3 bộ).
Những bài dịch bình luận về A hàm (Āgama) và Kinh Đại thừa (Mahāyāna Sūtras) (31 bài trong 3 bộ).

Những bài dịch khác nhau về Luận (Abhidharmas) ở buổi ban đầu (xem tr. 83ff.) (28 bài trong 4 bộ).

Những bài dịch của Trung quán (Madhyamaka), Du già (Yogācāra) và những bài kinh khác, hoặc những “luận thuyết” (129 bài trong 3 bộ).

Những lời phê bình bằng tiếng Hán về các kinh (Suttas), Luật (Vinaya) và Luận (Śāstras) (12 bộ).

Những bài viết bằng tiếng Hán của các tông phái khác (5 bộ).

Lịch sửtiểu sử (95 bài trong 4 bộ).

Bách khoa tự điển, tự điển, những học thuyết phi-Phật giáo, (Ấn Độ giáo, Ma-ni giáo, và Nestorian Thiên Chúa giáo), và những bản liệt kê mục lục về những bộ kinh khác nhau bằng tiếng Hán (64 bài trong 3 bộ).

Như đã thấy, bộ kinh bằng tiếng Hán gồm nhiều loại tài liệu (như những lời bình luận, những bài luận và sử ký ) được xem như ngoài kinh điển trong truyền thống Pali Phật giáo Nam tông.

Bộ kinh bằng tiếng Tây Tạng gồm có bKa”gyur (ph.a. Kangyur) và bStan’gyur (ph.a. Tengyur). Cái trước là “Bản dịch về những lời dạy của Đức Phật”, và gồm có ấn bản sNar thang (ph.a. Narthang) của 98 bộ chứa đựng trên 600 bài văn được dịch ra từng nhóm như sau :

Vinaya (kỷ luật tu viện) (13 bộ).

Perfection of Wisdom (Trí tuệ Bát Nhã) (21 bộ).

Avataṃsaka (Hoa Nghiêm) (6 bộ).

Ratnakūṭa (Bảo Tích) (6 bộ).

Sūtra (Kinh) (ba phần tư là của Mahāyāna (Đại thừa); 270 bài trong 30 bộ).

Tantra (Mật tông) (trên 300 bài trong 22 bộ).

“Bản dịch của những bài luận” bStan’gyur , gồm có ấn bản Bắc kinh có 3 626 bài trong 224 bộ. Chúng được chia thành từng nhóm như sau :

Stotras (Kệ tán thán), hoặc thánh ca hoặc ca ngợi (64 bài trong 1 bộ).
những lời bình về Tantras (Mật tông) (3 055 bài trong 86 bộ).
Những lời bình và những bài luận khác: lời bình về Perfection of Wisdom (Kinh Trí tuệ Bát nhã) và Vinaya (Luật); những bài luận Madhyamaka (Trung quán) và Yogācāra (Du già), các tác phẩm Abhidharma (Luận), những câu chuyện và kịch, những bài luận về các đề tài như ý thức hệ (logic), y học, văn phạm và hóa học, và những tác phẩm linh tinh khác (567 bài trong 137 bộ).
Bản kinh bStan’gyur phần lớn gồm có các tác phẩm Ấn Độ, nhưng ngoài hai Bộ Kinh kể trên, còn có những tác phẩm văn học khổng lồ được sáng tác bởi những người Tây Tạng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22992)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22502)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21777)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21203)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21792)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22260)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23639)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20466)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20071)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21960)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24779)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19017)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24013)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27789)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26558)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38180)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18817)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18448)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20008)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19066)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23205)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22954)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18737)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15864)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19708)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20182)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19971)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18144)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16444)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16946)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39299)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26118)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20131)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18880)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24099)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29175)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22926)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30990)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21043)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26884)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20701)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26286)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23356)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19839)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15848)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19881)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29003)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20718)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19470)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30551)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36476)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33275)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35612)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21014)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21947)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25285)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25820)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant