Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 12: Những bậc thánh thiện của Đại thừa - Con đường của Bồ Tát (Bodhisattva)

09 Tháng Hai 201100:00(Xem: 8897)
Chương 12: Những bậc thánh thiện của Đại thừa - Con đường của Bồ Tát (Bodhisattva)

Tủ Sách Đạo Phật Ngày Nay
GIỚI THIỆU ĐẠO PHẬT
Peter Harvey - Mỹ Thanh dịch - Nhà Xuất Bản Hải Phòng 2008

Chương 12
 NHỮNG BẬC THÁNH THIỆN

CỦA ĐẠI THỪA (MAHĀYĀNA)

Con đường của Bồ Tát (Bodhisattva)

Trí tuệ, từ biphương tiện thiện xảo

Đại thừa (Mahāyāna) chú trọng đến vị Bồ Tát (Bodhisattva), một người đang đi trên đường đến quả vị Phật hoàn hảo, mà nhiệm vụtừ bi giúp đỡ các chúng sinh trong khi đang phát triển trí tuệ của riêng mình. Với trí tuệ (prajñā) của riêng mình, vị nầy biết rằng không có “chúng sinh” nào, chỉ là những dòng luân lưu của các pháp (dharmas) rỗng không, nhưng với phương tiện thiện xảo giúp vị nầy hòa giải trí tuệ với lòng từ (karuṇā). Điều nầy thôi thúc vị nầy hoạt động để cứu vớt tất cả mọi chúng sinh, vì dù các chúng sinh là những dòng luân lưu rỗng không, nhưng họ vẫn cảm thấy “chính họ” là “những chúng sinh đau khổ” (Vc. sec. 3).

Trí tuệ trong nhiều trường hợp giúp đỡ cho lòng từ bi. Cuối cùng, nhờ vào đây để trở thành một vị Phật toàn trí, có thể giảng dạy và giúp đỡ các chúng sinh trong muôn vàn phương cách. Nó cũng bảo đảm là hành động từ bi thích hợp, có kết quả, và không phải là để tự lợi một cách lén lút. Hơn nữa, nó cũng cố cảm giác đoàn kết với mọi người, bởi sự thấu hiểu sâu sắc về “điểm tương đồng giữa các chúng sinh”: “ta” và “người” đều là rỗng không, không có sự khác biệt cuối cùng nào. 

Vị Bồ Tát (Bodhisattva) có thể thân cận với những kẻ làm sai trái, để “gần gũi” được họ, vì vị Bồ Tát (Bodhisattva) biết rằng những tính xấu nầy không cố hữu. Bất cứ sự kiêu hãnh tiềm tàng nào về những việc tốt đã làm đều bị kềm chế với ý nghĩ là tất cả “những công đức” của vị nầy cũng là rỗng không (Vc. sec. 8).
Từ bi cũng giúp cho trí tuệ cắt bỏ việc cho mình là trọng tâm, bằng cách khuyến khích một đời sống hy sinh cho kẻ khác và làm việc tích cực để giúp đỡ mọi ngườiKinh Hữu Học Kết Tập (Śikṣā-samuccaya) của Śāntideva (thế kỷ thứ bảy) tin rằng vị Bồ Tát cũng có thể làm một việc ác để bị quả báo địa ngục, nếu đây là vấn đề cần thiết để giúp đỡ một người khác và cho vị Bồ Tát cơ hội nhìn rõ mọi mặt của đời sống. Sự uyển chuyển lớn nơi Đại thừa (Mahāyāna) về những phương tiện thiện xảo của giáo điều được duy trì để nó khỏi trở thành một loại giấy phép liên kết với từ bi, thiền định thanh lọc, và niềm tin về nghiệp báo.

Những sự hoàn hảo
và cấp bậc của một vị Bồ Tát (Bodhisattva)

Con đường Bồ Tát (Bodhisattva-path) bắt đầu với sự xuất hiện của Bồ đề tâm (bodhi-citta), nguồn cảm hứng để tranh đấu tiến đến quả vị Phật và để giúp cho các chúng sinh đang đau khổ. Để cho sự kiện trọng yếu nầy xuất hiện, một người phải “xứng đáng” và có hiểu biết, muốn được như vậy cần phải thực tập về tâm linhđạo đức trong hiện tại và trong những đời sống đã qua, cùng với sự thành tâm, sự suy nghĩ về những nỗi khổ của mọi chúng sinh và sự cần thiết thành Phật. Năng lực của Bồ đề tâm (bodhi-citta) một khi xuất hiện có thể tạo nên rất nhiều “công đức” và làm giảm bớt những nghiệp xấu đã gieo trong quá khứ.

Sau sự xuất hiện của Bồ đề tâm (bodhi-citta), một người lập những hạnh nguyện Bồ Tát (praṇidhāna’s) với sự có mặt của những người đã lập hạnh và sống đúng với những lời nguyện đó, hoặc tuyên thệ trước các vị Phật và các vị Bồ Tát như những nhân chứng. Có những lời tuyên thệ chung thông thường: khắc phục vô số trần cấu, đạt quả vị Phật không thể so sánh, và cứu độ các chúng sinh; những người khác thì giúp đỡ các chúng sinh trong những trường hợp đặc biệt. Lời nguyện cứu độ tất cả các chúng sinh được xem là đáng tin, và không tham vọng quá mức, bởi các chúng sinh đều có “Phật tính” (Buddhaness), hoặc “Như lai tạng (Tathāgata-garbha), và không ích kỷ vì biết rằng các chúng sinh cũng không khác chi Bồ Tát.

Tuy nhiên, những lời tuyên thệ như vậy không nên coi thường. Chúng trở nên một sức mạnh tự trị đầy năng lực trong phần tâm thầnđưa tới sự “lầm lỗi” lớn nếu không giữ lời thệ nguyện. Thông thường, cần phải có từ ba cho đến ba mươi ba “hằng hà sa số kiếp” để những lời tuyên thệ nầy có thể thành tựu (xem tr. 33). Con đường Bồ Tát (Bodhisattva-path) thênh thang rộng lớn có lẽ đã được vạch ra từ các tác phẩm văn chương Bát Nhã (Perfection of Wisdom literature) ở buổi ban đầu, nhưng lại là sản phẩm của sự tuyên dương ca ngợi và triết lý kinh viện sau nầy.

Con đường Bồ Tát (Bodhisattva-path) được thực tập bằng cách phát triển một số “hoàn hảo” (pāramitās) và tiến mãi qua mười “cấp bậc” (bhūmis). Sáu “hoàn hảo” được diễn tả trong văn chương Bát Nhã (Perfection of Wisdom literature), dù bốn phần khác được thêm vào sau nầy để phối hợp với bốn “cấp bậc” sau cùng. Những cấp bậc được diễn tả trong các tác phẩm có lẻ là những sáng tác của Asanga, Kinh Bồ Tát địa (Bodhisattva-bhūmi), và kinh Thập địa (Daśa-bhūmika Sūtra). Những tác phẩm nầy nói về vị Bồ Tát Thánh Thiện (Ārya), cũng như Bát Chánh Đạo (Eightfold Path) đưa đến Bát Thánh Đạo (Holy Eightfold Path), và như vậy vị Bồ Tát thực tập những sự hoàn hảo ở mức độ tầm thường trước khi trở thành một vị Thánh Thiện. Sự thay đổi nầy, giống như sự nhập lưu (xem tr.68), xảy ra khi đạt đến “Kiến Đạo”, một mức độ phát triển tâm linh mà sự thấu hiểu sâu sắc nơi thiền định đem lại một kinh nghiệm đầu tiên đầy đủ về sự rỗng không.

Trong giai đoạn đầu, vị Bồ Tát Thánh Thiện tràn đầy niềm vui và niềm tin, và chăm chú vào việc phát triển sự bố thí (dāna) ở mức độ cao nhất. Ở đây việc bố thí là cho hết sức khỏe, lời dạy bảo, mạng sống, chân tay, kể cả vợ và gia đình, vì lợi ích của những người khác. “Công đức” từ những hành động như vậy được hồi hướng cho quả vị Phật tương lai của mình và mọi người. Śantideva khen ngợi sự hồi hướng “công đức” (pariṇāmanā) trong chương cuối của tác phẩm Nhập Bồ đề kinh (Bodhi-caryāvatāra) của ông. Śantideva nguyện là nhờ vào “công đức” viết bài thơ nầy, nhân loạichúng sinh khác có thể được giải thoát khỏi mọi hoạn nạn, và được phú cho đạo đức, niềm tin, trí tuệlòng từ bi. Trong một câu thơ, ông còn nguyện là những đau khổ của thế gian nên chính muồi nơi ông : nghĩa là không phải chỉ cho họ những “công đức” của mình, ông còn nguyện chịu luôn những nghiệp xấu của các kẻ khác. Trong giai đoạn thứ hai, vị Bồ Tát chú tâm vào sự hoàn hảo về đạo đức (sīla), cho đến khi hạnh kiểm của vị nầy trở nên trong sạch một cách tự nhiên. Ông cũng khuyến khích những người khác tránh sự vô đạo đức, vì nó đưa đến những nơi tái sinh không may mắn. Sự phát triển về thiền định của ông giúp ông thấy được các cõi trời và kính ngưỡng vô số các vị Phật. 

Trong giai đoạn thứ ba, vị Bồ Tát chú tâm vào việc hoàn hảo sự nhẫn nhục (kṣānti), được cũng cố bằng sự thực tập lòng tử tế và từ bi. Vị Bồ Tát phát triển khả năng chịu đựng rất lớn trong mọi nghịch cảnh, tránh sự nổi giận, và kiên nhẫn kiên trì trong việc tìm hiểu Pháp (Dharma) sâu thẳm. Trong giai đoạn thứ tư, sự hoàn hảo về tinh tấn (vīrya) được phát triển, nhờ vào sự tăng trưởng của nguyện vọng và lòng từ bi. Sự quan tâm cảnh giác hay chánh niệm (mindful alertness) được củng cố, và ở giai đoạn đặc biệt nầy thật là thích hợp để mà thực tập kỷ luật như các vị nam nữ tu sĩ

Trong giai đoạn thứ năm, sự chú tâm vào việc hoàn hảo thiền định (dhyāna). Những trạng thái nhập định được quán triệt, nhưng sự tái sinh nơi cõi trời không được chấp nhận. Trong Tứ Diệu Đế (Four Holy Truths) một khi hiểu rõ và có khả năng, thì việc chuyển đổi từ tục đế đến chân đế được phát triển. Những khả năng trong phạm vi toán học, y học, và thơ văn được trau dồi, như những phương tiện để giúp đỡ những người khác và để giảng dạy giáo pháp (Dharma). Trong giai đoạn thứ sáu, trí tuệ được hoàn hảo. Vị Bồ Tát (Bodhisattva) có được sự hiểu biết sâu sắc hoàn toàn về Lý duyên khởi (Conditioned Arising), vô ngã và không, và như vậy đạt đến một trình độ phát triển song song với vị A-la-hán (Arahat). Lúc sắp chết, vị nầy có thể rời vòng tròn tái sinh để vào Niết Bàn (Nirvāṇa), nhưng vì “lòng đại từ bi” của Đại thừa (Mahāyāna) không cho phép vị nầy làm như vậy. Bởi vì trí tuệ hoàn hảo và năm giai đoạn trước đó nhấn mạnh về sự hoàn hảo để trở nên siêu việt, đạt đến sự tràn đầy những hoàn hảo. Những hành động khó nhất được thực hiện mà không có chút gì ý thức về tự ngã hoặc hành động có mưu đồ. Thí dụ, khi cho vị nầy không thấy “người cho”, “món quà”, “người nhận” hoặc “kết quả”; bởi vì tất cả đều tan vào trong sự rỗng không ( Bản văn, 131).

Trong giai đoạn thứ bảy, vị Bồ Tát (Bodhisattva) đi xa hơn việc tái sinh tùy vào nghiệp lực, và trở thành một “Chúng sinh Vĩ đại” (Mahā-sattva), một chúng sinh cõi trời hay cứu vớt bằng những phương tiện thiện xảo từ nơi sự hoàn hảo của chính mình, vị nầy với thần thông, phóng ra hình ảnh của mình trong vô số thế giới để dạy dỗ và giúp đỡ các chúng sinh một cách thích hợp. Vì biết rằng luân hồi (saṃsāra) không khác chi Niết Bàn (Nirvāṇa), vị nầy đạt đến “vô trụ Niết Bàn” (xem tr. 113). Trong giai đoạn thứ tám, vị nầy đạt đến mức độ không thối chuyển, tức là lúc nầy vị nầy chắc chắn là mình sẽ đạt quả vị Phật. Sự hiểu biết của vị nầy có khả năng làm cho vị ấy xuất hiện bất cứ ở nơi nào trong vũ trụ mà vị ấy muốn, để dạy dỗ các chúng sinh với hình dạng giống họ. Vị nầy quán triệt đầy đủ sự hồi hướng “công đức” từ kho chứa rộng lớn của mình, như vậy các chúng sinh khi cầu nguyện vị nầy sẽ nhận được công đức như là một nâng đỡ tâm linh miễn phí. Trong giai đoạn thứ chín, vị Bồ Tát hoàn hảo sức mạnh (bala) của mình, dùng sự thấu hiểu sâu sắc rộng lớn của mình để hiểu về cá tính của chúng sinh và giúp đỡ, dạy dỗ họ với những phương thức chính xácthích hợp.

Trong giai đoạn thứ mười, vị Bồ Tát sống ở cung trời Tuṣita nơi Bồ Tát Maitreya đang cư ngụ (xem tr. 15). Vị nầy có được một thân thể rạng rỡ và được bao quanh bởi một đoàn tùy tùng gồm các vị Bồ Tát nhỏ hơn. Sự chú tâm trong thiền định về sự toàn giác giống như viên Kim Cương, vị nầy có được sự hiểu biết hoàn hảo (jñāna). Các vị Phật sau đó đến để thọ ký cho vị nầy quả vị Phật hoàn hảo mà vị nầy sẽ đạt được trong giai đoạn Như lai (Tathāgata) sắp tới.
Việc đạt được quả vị Phật không xảy ra ở thế gian nầy, nhưng xảy ra nơi cung trời Akaniṣṭha, một cõi trời trong sạchthanh tịnh nhất (Lanka. 361). Nơi Phật giáo ở buổi ban đầu, cõi nầy được xem là cõi cao nhất trong năm cõi trời “thanh tịnh”, nơi mà chỉ có những vị không trở lại (Non-returners) được tái sinh ở đây và đạt kinh nghiệm Niết Bàn sau đó (xem tr.72). Mạng sống của các vị trời “cao tuổi nhất” (Pali Akaniṭṭha) là 16.000 kiếp. 

Trong Đại thừa (Mahāyāna), nơi nầy là nơi mà một vị Bồ Tát đạt Niết Bàn cuối cùng, quả vị Phật. Trong vài trường hợp, theo những bài giảng trước đó, những Vị Đại Bồ Tát (Great Beings) được xem là giống như những vị không trở lại, vì sự thấu hiểu sâu sắc của các vị không trở lại thường được xem là gần với sự hiểu biết sâu sắc của các vị A-la-hán (Arahats), nhưng họ vẫn tiếp tục tái sinh ở các cõi trời trước khi đạt được Niết BànTuy nhiên, Đại thừa (Mahāyāna) nhấn mạnh rằng các vị Đại Bồ Tát và các vị Phật có được trí tuệ rộng lớn hơn vị A-la-hán hoặc các vị thánh ở cấp bậc thấp hơn.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22994)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22509)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21779)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23359)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21205)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 21801)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22265)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23645)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20469)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20075)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21966)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24783)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19021)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24018)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27795)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26559)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 38183)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18818)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18452)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20011)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19073)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23211)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 22959)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 18742)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15870)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19710)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20191)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19975)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18149)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 16445)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16948)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39301)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26123)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20133)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18881)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24100)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29180)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22928)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30999)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21045)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26889)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20711)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26290)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23361)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19841)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 15852)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 19885)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29008)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20721)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19471)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30551)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36477)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33280)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35614)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21020)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21947)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25292)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25825)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant