Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Phương thức diễn tiến của Javana

07 Tháng Năm 201100:00(Xem: 17451)
6. Phương thức diễn tiến của Javana

VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU

Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch

CHƯƠNG IV

VĪTHI-SAṄGAHA VIBHĀGO
Phân tách Tiến trình tâm

-ooOoo-

Javana-Niyamo
Phương thức diễn tiến của Javana (13)

11.

Javanesu ca parittajavanavīthiyaṁ kāmāvacara- javanāni sattakkhattuṁ chakkhattum' eva vā jayanti.

Mandappavattiyaṁ pana maraṇakālādīsu pañca- vāram'eva.

Bhagavato pana yamakapāṭihāriyakālādīsu lahuka- ppavattiyaṁ cattāri pañca vā paccavekkhaṇacittāni bhavantī' ti pi vadanti.

Ādikammikassa pana paṭhamakappanāyaṁ mahaggatajavanāni, abhiññājavanāni ca sabbadā pi ekavāram' eva javanti. Tato paraṁ bhavaṅgapāto.

Cattāro pana magguppādā ekacittakkhaṇikā. Tato paraṁ dve tīṇi phalacittāni yathārahaṁ uppajjanti. Tato paraṁ bhavaṅgapāto.

Nirodhasamāpattikāle dvikkhattuṁ catutthāruppa- javanaṁ javati. Tato paraṁ nirodhaṁ phusati. Vuṭṭhānakāle ca anāgāmi phalaṁ vā arahattaphalaṁ vā yathāraham' ekavāraṁ uppajjitvā niruddhe bhavaṅgapāto'va hoti.

Sabbatthā' pi samāpattivīthiyaṁ pana bhavaṅgasota viya vīthiniyamo natthī' ti katvā bahūni pi labbhantī' ti (veditabbaṁ).

12.

Sattakkhattuṁ parittāni maggābhiññā sakiṁ matā
Avasesāni labhanti javanāni bahūni'pi.
Ayam'ettha Javana-Niyamo.

§11

Về các javanas, trong một tiến trình javana nhỏ, những chặp javanas thuộc Dục Giới chỉ chạy trong bảy hoặc sáu chặp.

Tuy nhiên, trong trường hợp một tiến trình "yếu", và vào lúc lâm chung, chỉ năm chặp.

Ðối với Ðức Thế Tôn, lúc Ngài làm phép yamaka pāṭihāriya (song hành, làm cho nước và lửa cùng phun ra một lượt từ các lỗ chân lông) hay trong những trường hợp tương tợ, thì tiến trình chạy thật nhanh, chỉ có bốn hay năm chặp tư tưởng suy niệm phát sanh, các Ngài dạy như vậy.

Ðối với người mới vừa đắc Sơ Thiền, những chặp tâm Cao Thượng và những chặp javanas Siêu Trí Thức chỉ chạy một lần. Sau đó chìm biến vào bhavaṅga (hộ kiếp).

Bốn Ðạo (Magga) chỉ tồn tại trong một chặp tư tưởng. Sau đó, tùy trường hợp, hai hoặc ba chặp tâm Quả (Phala) sẽ khởi lên rồi chìm biến vào bhavaṅga.

Vào lúc Chấm Dứt Tối Thượng (Diệt Thọ Tưởng Ðịnh) (14), javana Tứ Thiền Vô Sắc chạy hai lần và nhập vào sự Chấm Dứt. Khi xuất (Diệt Thọ Tưởng Ðịnh), hoặc tâm A Na Hàm Quả, hoặc tâm A La Hán Quả khởi sanh, tùy trường hợp. Sau khi chấm dứt, tâm nầy chìm biến vào luồng hộ kiếp (bhavaṅga).

Trong tiến trình của những tâm Chứng Ngộ, không có những tiến trình xảy diễn một cách đều đặn giống nhau như diễn tiến của luồng bhavaṅga. Dầu sao, phải hiểu rằng có nhiều javanas Cao Thượng và Siêu Thế phát sanh.

§12

Phải hiểu rằng những javanas nhỏ phát sanh trong bảy chặp, Ðạo và những tâm Siêu Trí Thức chỉ một lần duy nhất, ngoài ra (những tâm Cao Thượng và Siêu Thế), nhiều lần.

Ðây là phương thức diễn tiến của javanas.

Chú Giải

13. Javana, Tốc Hành Tâm

Vì rất khó tìm ra một danh từ để chuyển dịch một cách chính xác, ở đây xin giữ lại nguyên vẹn chữ Pāli nầy.

Cả hai -- javana có tánh cách tâm lý, và javana có tánh cách đạo đức -- đều rất quan trọng bởi vì chính ở giai đoạn nầy mà cả hai, tâm thiện và tâm bất thiện, đều được xác định.

Ðôi khi luồng javana chỉ tồn tại trong một chặp (sát-na). Những lúc khác, có thể chạy nhiều chặp, tối đa là bảy chặp.

Thông thường những javanas thuộc Dục Giới chỉ tồn tại trong sáu hoặc bảy chặp. Khi ở trong tình trạng mê man bất tỉnh, hay vào lúc lâm chung, chỉ có năm chặp.

Khi Ðức Thế Tôn dùng thần thông, làm cho nước và lửa, gần như cùng một lúc, phun ra từ thân Ngài, chỉ có bốn hoặc năm chặp javana phát sanh, vì lúc ấy Ngài suy niệm về những chi Thiền, điều kiện cần thiết để thực hành pháp Yamaka Pāṭihāriya, Song Hành.

Trong trường hợp người hành thiền phát triển Sơ Thiền lần đầu tiên, luồng javana chỉ phát sanh trong một chặp. Cùng thế ấy, những vị phát triển năm pháp Abhiññās là:

i. Thần Thông (Iddividha),
ii. Thiên Nhĩ Thông (Dibba Sota),
iii. Thiên Nhãn Thông (Dibba Cakkhu),
iv. Tha Tâm Thông (Paracittavijjānana), và
v. Tri Mạng Thông (Pubbe-nivāsānusati Ñāṇa, hồi nhớ các tiền kiếp).

Bốn tâm javana Ðạo Siêu Thế (Magga) cũng chỉ tồn tại trong một chặp duy nhất. Chính trong khoảnh khắc vĩ đại ấy hành giả chứng ngộ Niết Bàn.

14. Nirodha Samāpatti, Diệt Thọ Tưởng Ðịnh.

Cũng được gọi là Ðại Ðịnh. Một vị A Na Hàm hay A La Hán đã có phát triển Thiền Sắc GiớiVô Sắc Giới có thể vận dụng chí lực của mình làm cho dòng tâm tạm thời dừng lại trong bảy ngày liền. Khi đạt đến trạng thái ấy, tất cả những sinh hoạt tinh thần đều ngưng lại, mặc dầu nhiệt độ của cơ thể và sự sống vẫn còn. Hơi thở lúc ấy đã chấm dứt. Sự khác biệt giữa một tử thi và cơ thể của người nhập Diệt Thọ Tưởng Ðịnh là cơ thể nầy còn sự sống. Kinh sách ghi rằng cơ thể của người nhập Nirodha-samāpatti, Diệt Thọ Tưởng Ðịnh, cũng không thể bị gây tổn thương. Sự thành đạt trạng thái Thiền nầy được gọi là Nirodha-Samāpatti. Nirodha là sự chấm dứt. Samāpatti là thành đạt. Nirodha-Samāpatti là thành đạt sự chấm dứt, thường được gọi là Diệt Thọ Tưởng Ðịnh, hay Ðại Ðịnh.

Liền trước khi nhập vào trạng thái nầy vị hành giả chứng nghiệm tứ thiền Vô Sắc, tức Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, trong hai sát-na tâm.

Liền sau đó luồng tâm chấm dứt, dừng lại cho đến khi Ngài xuất thiền theo ý muốn. Thông thường Ngài nhập Thiền khoảng bảy ngày, không cử động. Kinh sách có ghi lại diễn biến một vị Phật Ðộc Giác bị lửa đốt trong khi ở trong trạng thái Diệt Thọ Tưởng Ðịnh nầy. Nhưng rồi Ngài không hề gì.

Ðến khi hành giả xuất Thiền, chặp tư tưởng đầu tiên phát sanh đến Ngài là một chặp A Na Hàm Quả, nếu hành giả là một vị A Na Hàm, hoặc A La Hán Quả, nếu là một vị A La Hán.

Sau đó luồng tâm chìm biến vào bhavaṅga.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 77)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 117)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 228)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 261)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 275)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 337)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 259)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 341)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 445)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 398)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 356)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 442)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 662)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 515)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 533)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 622)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 815)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 885)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 910)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 892)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 774)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 757)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 757)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 854)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 875)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 978)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 758)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 647)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 754)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 863)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 763)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 760)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 875)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 908)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 861)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 915)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 949)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 935)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1134)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 999)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1728)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1109)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1243)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 986)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1252)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1155)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1166)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1324)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1618)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2085)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1143)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1394)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1139)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 987)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1090)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1138)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1566)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1324)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1338)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant