BÁT CHÁNH ĐẠO
Con Đường Đến Hạnh Phúc
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana
Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
CHÁNH KIẾN
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn.
Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc. Một cuộc sống đắm say trong dục lạc hoặc quá khổ hạnh đều không thể có được hạnh phúc. Chỉ có con đường trung đạo, tránh hai trạng thái cực đoan đó, mới có thể giúp ta đạt được tâm bình an, tuệ giác và sự giải thoát hoàn toàn khỏi những phiền não trong cuộc đời.
Theo truyền thống, những lời dạy đó của Đức Phật được gọi là Tứ Diệu Đế. Diệu đế cuối cùng trong bốn diệu đế kia đã đề ra giáo lý tám ngành (Bát Chánh Đạo) để giúp ta đạt được hạnh phúc. Ngài dạy chúng ta phải phát triển sự thiện xảo trong suy nghĩ, hiểu biết, lời nói, hành động, cách sống, tinh tấn, chánh niệm và định.
Trong chương này và các chương tiếp theo chúng ta sẽ khảo sát các ngành (bước) này một cách chi tiết. Bạn sẽ thấy ba ngành –chánh kiến, chánh tinh tấn và chánh niệm –có mặt trong tất cả tám ngành. Đây là những điều cốt yếu trong con đường đạo. Tất cả các ngành đều tương quan lẫn nhau nhưng không có ngành nào có thể vận hành mà không có sự ứng dụng triệt để của chánh kiến, chánh tinh tấn và chánh niệm.
Bạn thực hành theo con đường này bằng cách mang sự chú tâm chánh niệm đến với tất cả mọi khía cạnh trong cuộc sống hằng ngày, tiếp tục tu sửa để tiến tới sự hoàn thiện và ứng dụng trí tuệ một cách khôn ngoan hơn. Khi tâm đã ổn định, tuệ giác sẽ bắt đầu phát sinh.
Có loại trí tuệ tựa như một sự bừng tĩnh nhẹ nhàng khi một phần nào đó của cuộc sống hay của vũ trụ bỗng trở nên rõ ràng, khúc chiết. Lại có những sự liễu ngộ sâu sắc hơn, như thể cả vũ trụ chuyển động bởi sự khám phá này của bạn. Đó có thể là một cảm giác giải tỏa, tiếp theo sau bởi một cảm giác tự tại, an nhiên mạnh mẽ, có thể kéo dài hàng giờ hay đôi khi nhiều ngày. Những chứng nghiệm tuyệt vời này không phải là sự giác ngộ. Chúng chỉ là những dấu hiệu cho ta thấy sự giác ngộ hoàn toàn có thể sẽ như thế nào.
Nhưng có thể có một giây phút nào đó khi tất cả các chi của tám ngành đều có mặt cùng một lúc. Giới luật hoàn hảo; thiền định sâu xa và mạnh mẽ; tâm trong sáng rõ ràng không có mặt của bất cứ chướng ngại nào. Lúc đó có thể bạn đã có được tuệ giác sâu xa nhất –rằng tất cả pháp đều vô ngã và vô thường, rằng không có gì đáng để chúng ta bám víu vào. Ngay lúc đó, tất cả mọi hoài nghi của bạn đều tan biến, và bạn sẽ nhìn cuộc đời bằng con mắt khác.
Từ đó, bạn bước lên một cấp bậc hoàn toàn mới trên con đường đạo. Nhưng trước thời điểm đó, bạn phải có sự hiểu biết rõ ràng thông suốt về cách tất cả các ngành của con đường hòa hợp, ăn khớp với nhau. Sau sự liễu ngộ đó, trí tuệ của bạn sẽ đạt đến một trình độ cao hơn, gọi là cấp bậc “vượt trên thế tục”, và bạn sẽ bước tới với một sự tự tin tuyệt đối. Bạn biết rằng bất chấp tất cả, bạn sẽ đạt đến mục đích của mình.
_____________________________
Khi
làm bất cứ điều gì, đầu tiên là phải biết tại sao chúng
ta hành động như thế. Đó là lý do tại sao Đức Phật đã
chọn chánh kiến làm bước đầu tiên trên con đường tiến
tới hạnh phúc. Ngài muốn chúng ta hiểu rằng con đường
Phật giáo không phải là một điều gì mơ hồ của “lời
hứa sống tốt” để được ban thưởng, cũng không phải
là những giới luật kỳ quặc nào đó mà ta phải tuân giữ
như trong một hội kín.
Trái
lại, con đường của Đức Phật được đặt nền tảng trên
sự hiểu biết thông thường và trong sự quán sát thực tại
rốt ráo. Ngài biết rằng nếu chúng ta chịu mở mắt ra, nhìn
lại cuộc đời mình một cách cặn kẻ, ta sẽ hiểu rằng
chính những lựa chọn của ta, sẽ dẫn ta đến hạnh phúc
hay bất hạnh. Một khi đã hiểu quy luật này một cách thấu
đáo, chúng ta sẽ có những lựa chọn khôn ngoan, vì chúng
ta thực sự muốn được hạnh phúc.
Như
Đức Phật đã giải thích, chánh kiến có hai phần: hiểu
được lý nhân quả, và hiểu được Tứ Diệu Đế.
Lý
Nhân Quả
Đức
Phật có thể diễn tả các hành động như là tốt xấu, đúng
sai, đạo đức hay không đạo đức, nhưng chúng có một ý
nghĩa phần nào khác với những gì mà các từ này thường
biểu hiện. Có lẽ “thiện xảo hay không thiện
xảo” giải thích ý nghĩa này tốt nhất. Căn bản đạo đức
trong Phật giáo là nếu hành động một cách bất thiện xảo
sẽ dẫn đến hậu quả khổ đau, và nếu hành xử một cách
thiện xảo, khéo léo sẽ đưa đến những kết quả tốt đẹp.
Quy luật nhân quả đơn giản này là một khía cạnh của những
gì mà người Phật tử chúng ta thường gọi là nghiệp (karma
hay kamma).
Mặc
dù một số hành động bất thiện xảo có thể đem lại hạnh
phúc tạm bợ -thí dụ, người buôn bán ma tuý có thể hài
lòng với chiếc xe hơi mới tinh bóng lộng của mình, hoặc
ai đó có cảm giác hài lòng, thoã mãn khi có thể đem lại
đau đớn cho người đã hãm hại mình– nhưng Đức Phật
đã chỉ rõ rằng những hành động bất thiện lúc nào cũng
đưa đến khổ đau. Chúng ta tự quan sát cũng xác tín
được sự thật này. Một số hậu quả có thể không thấy
được, như là sự đau khổ tinh thần lúc ăn năn hối hận.
Có những hậu quả xấu không xuất hiện ngay lập tức. Đức
Phật giải thích rằng hậu quả của những hành động thiện
và bất thiện, có thể xảy ra mãi sau này xa, rất xa trong
tương lai, đôi khi mãi đến các kiếp sau.
Bạn
có thể nghĩ “Tôi không quan tâm đến kiếp sống tương lai,
tôi chỉ muốn những gì tôi có thể có được ngay trong kiếp
sống này.” Đức Phật khuyên chúng ta hãy nghĩ đến những
tình huống sau đây: Ngay nếu như không có đời sống tương
lai, làm việc thiện vẫn đem đến cho chúng ta hạnh phúc và
một lương tâm trong sáng ngay trong kiếp sống này. Ngược
lại nếu có cuộc sống tiếp nối sau khi chết, ta sẽ được
thưởng đến hai lần -hiện tại và sau này. Mặt khác, dầu
không có một đời sống trong tương lai, hành động bất thiện
vẫn khiến ta cảm thấy ăn năn, hối hận ngay trong kiếp sống
này. Và nếu thật sự có một cuộc sống sau khi chết thì
ta sẽ phải chịu khổ lần nữa. Do đó, dầu có một đời
sống ở kiếp sau hay không, hãy buông xả những ác nghiệp
và phát triển thiện nghiệp để đảm bảo được hạnh phúc.
Một
khi ta hiểu được rằng tất cả mọi suy nghĩ, hành động
hay lời nói của ta là nguyên nhân dẫn đến những hậu quả
không thể tránh, trong hiện tại và tương lai, dĩ nhiên là
ta sẽ muốn tư duy, nói năng và hành động để đưa đến
những kết quả tích cực và tránh những ý nghĩ, hành động,
và lời nói đưa đến những kết quả tiêu cực. Nhận thức
được rằng nhân luôn dẫn đến quả giúp chúng ta chấp nhận
hậu quả của các hành động trong quá khứ của chúng ta.
Điều đó cũng giúp ta thận trọng trong các quyết định đưa
đến một tương lai hạnh phúc hơn.
Chánh
nghiệp là những hành động tạo nên nhân cho hạnh phúc, như
là những hành động phát xuất từ lòng từ bi. Bất cứ hành
động nào xuất phát từ một tâm không đang bị sân, si, hay
tham chế ngự đều sẽ mang hạnh phúc đến cho người hành
động cũng như người thọ nhận. Do đó, một hành động
như thế được coi là thiện xảo hay đạo đức.
Giả
sử rằng bạn luôn vun trồng tâm bố thí và từ bi đến cho
tất cả mọi người. Hành động thiện này là nhân. Thì quả
sẽ được gì? Bạn sẽ có rất nhiều bạn bè, nhiều người
yêu mến, và bạn sẽ cảm thấy tự tại, tràn đầy hạnh
phúc. Người chung quanh bạn có thể sân hận, khổ đau, nhưng
bạn thì không.
Hành
động tích cực của bạn làm phát sinh hai loại kết quả
tức thời. Kết quả đầu tiên thuộc nội tại -bạn cảm
giác thế nào. Vì bạn luôn có tâm độ lượng, thương yêu
và tâm đó đã phản ảnh qua hành động của bạn, thì tâm
bạn tràn đầy bình an, hạnh phúc. Kết quả thứ hai
ở bên ngoài: người khác sẽ mang ơn, và quan tâm đến bạn.
Mặc dầu sự quan tâm này chắc chắn sẽ làm ta hài lòng,
thỏa mãn, tuy nhiên nó không quan trọng bằng việc ta cảm
thấy thế nào. Vì các kết quả ở bên ngoài tùy thuộc vào
phản ứng của người khác, chúng không đáng tin cậy lắm.
Khi
chúng ta đã hiểu được quy luật này, thì điều trái ngược
lại cũng trở nên rõ ràng. Đức Phật đã liệt kê mười
hành vi bất thiện vì chúng luôn mang đến khổ đau. Ba hành
vi là thuộc về thân: giết hại, trộm cắp, và tà dâm. Bốn
hành vi thuộc về lời nói: nói dối, nói lời độc ác, lời
thô lỗ và nói chuyện phù phiếm. Ba hành vi còn lại thuộc
về tâm: tham, sân và si.
Mỗi
hành vi này nghĩa là gì và ta làm thế nào để tránh phạm
chúng sẽ được giải thích chi tiết trong những bước sau
của con đường đạo. Tuy nhiên, trước khi có thể bắt đầu
thực hành theo con đường đạo của Đức Phật, chúng ta cần
có đủ những tri thức căn bản để nhận thức rằng mười
hành vi này là bất thiện vì chúng chắc chắn sẽ mang đến
cho người hành động lẫn nạn nhân sự khổ đau vô cùng
tận.
Để
kiềm chế khỏi phạm vào mười hành vi này không phải là
một danh sách các lời răn cấm mà là một số những điều
luật ta tự nguyện tuân theo do có lòng tin như thế. Không
ai có thể ép buộc bạn tuân theo chúng. Bạn phải tự mình
khám phá ra, từ chính kinh nghiệm bản thân và từ việc quan
sát học hỏi kinh nghiệm của người khác, xem những hành
động như thế sẽ mang lại kết quả tích cực hay tiêu cực.
Kinh nghiệm cho bạn biết rằng các hành vi bất thiện sẽ
mang đến những nỗi đau nơi thân cũng như tâm cho chính bản
thân bạn và người khác.
Hơn
thế nữa, người ta chỉ tạo ra các hành vi bất thiện khi
họ không hiểu biết hay khi tâm họ bị vẩn đục bởi tham,
sân, si. Thật ra, bất cứ hành động nào xuất phát từ một
tâm chứa đầy tham, sân, hay si đều đưa đến khổ đau và
do đó là hành động sai trái hay bất thiện.
Đạo
đức theo Phật giáo là những hành động có lý trí dựa trên
nguyên lý nhân quả. Bạn phải tự dối mình về lý nhân quả
mới có thể hành động sai trái. Hành động càng xấu ác,
thì sự lừa dối càng phải lớn lao. Nếu bạn cố tình
dung dưỡng sự giả trá này với những hành động đi
ngược lại với chân lý cơ bản rằng hành động sẽ mang
lại hậu quả, thì bạn làm sao có được tuệ giác sâu xa
hay sự giải thoát nào? Nếu phạm vào các hành động tội
lỗi nghiêm trọng, bạn sẽ không có được sự sáng suốt
để theo con đường đạo của Đức Phật –nói gì đến
việc có trí tuệ giải thoát. Bạn phải tôn trọng đạo
đức này. Điều đó rất quan trọng.
Minh
sát thiền làm tăng trưởng ý thức về những hậu quả tai
hại của một hành động vô lương. Hành giả sẽ trải
nghiệm một cách sinh động các hậu quả đớn đau của những
hành động, ý nghĩ, và lời nói bất thiện và cảm thấy
cần phải buông xả chúng một cách nhanh chóng.
Tương
lai là do bạn tự tạo dựng –kinh nghiệm dạy bạn điều
đó. Hành vi của bạn không phải là một định luật thiên
nhiên bất biến. Mỗi giây phút, bạn đều có cơ hội để
chuyển hóa -để thay đổi cách suy nghĩ, lời nói và hành
động. Nếu bạn tự rèn luyện để trở nên chánh niệm
về hành vi của mình, và tự quán sát xem một hành động
nào đó sẽ dẫn đến hậu quả tích cực hay tiêu cực, là
bạn đã tự dẫn dắt mình đi đúng hướng.
Các
thiện ý qua nhiều huân tập có thể tạo ra một tiếng nói
nội tại mạnh mẽ để giúp bạn vững bước đi tới. Nó sẽ nhắc nhở bạn -bất cứ khi nào bạn tự trói buộc
mình vào vòng xoáy của khổ đau -để bạn có thể thoát ra
cạm bẫy đó. Thi thỏang bạn có thể thoáng nhận được
thế nào là giải thoát. Bạn sẽ biến cảm giác này thành
hiện thực bằng cách hành động theo những hướng tích cực
và buông xả khổ đau.
Do
đó đạo đức –được định nghĩa như những hành động
tuân theo thực tại– là nền tảng của mọi phát triển tâm
linh. Không có nó, không có điều gì trên con đường đạo
sẽ hiệu ứng để giảm khổ đau.
Biết
được rằng một hành động sẽ có các kết quả tương ứng
là sự khởi đầu cho chánh kiến. Giờ bạn phải thêm
vào đó một sự hiểu biết thấu đáo về Tứ Diệu Đế.
Tứ Diệu
Đế
Chính
Đức Phật đã nói rằng Ngài chỉ dạy bốn điều: khổ,
nguồn gốc của khổ, sự chấm dứt khổ, và con đường đưa
đến sự chấm dứt khổ. “Khổ” ám chỉ những bất hạnh
mà ta cảm nhận trong cuộc đời mình. “Nguồn gốc” là
nhân cho sự đau khổ này: là tâm không rèn luyện, tham đắm
của chúng ta. “Chấm dứt” là lời hứa khả của Đức
Phật rằng chúng ta có thể chấm dứt khổ đau bằng cách
tận diệt ái dục. “Con đường (đạo)” là tám bước (ngành)
chúng ta phải theo để đạt đến mục đích này.
Trong
bốn mươi lăm năm thuyết pháp, từ bài thuyết pháp đầu
tiên của Ngài trong vườn Nai cho đến lúc nhập diệt, Đức
Phật đã giảng giải về bốn điều này hàng trăm lần. Ngài muốn chắc chắn rằng những điều cơ bản này phải
được nhiều người ở những hoàn cảnh khác nhau, ở những
giai đoạn phát triển tâm linh khác nhau, thấu đáo.
Có
lần, Đức Phật đã dạy rằng không chấp nhận những bất
hạnh trong cuộc đời là một gánh nặng. Chúng ta tạo ra đau
khổ cho mình bằng cách nhận lãnh gánh nặng đó. Ta chấm
dứt khổ bằng cách đặt gánh nặng xuống. Con đường đạo
chỉ cho ta phương cách để giảm bớt gánh nặng cho bản thân.
Đức Phật cũng dạy rằng khổ là một căn bệnh. Giống như
một người thầy thuốc, Ngài đã chẩn đoán nguồn gốc của
bệnh. Sự chấm dứt căn bệnh là cách chữa trị của dược
sư Như Lai và con đường là thuốc chữa mà Ngài đã kê toa
cho chúng ta.
Diệu Đế
Thứ Nhất: Khổ
Chân
lý đầu tiên mà Đức Phật thuyết cho chúng ta là khổ là
điều không thể tránh khỏi. Có thể bạn tự hỏi, “Giáo
lý về khổ này có áp dụng được trong thế giới hiện đại
với rất nhiều những phát minh để giúp cho cuộc sống của
chúng ta thoải mái hơn? Vào thời của Đức Phật, con
người hẳn phải khổ vì các nhu cầu thiết yếu, bệnh tật,
và thiên tai. Chẳng phải là các kiến thức về kỹ thuật
hiện đại đã giúp chúng ta có thể làm bất cứ điều gì
ta muốn, đi đến bất cứ nơi nào ta ao ước và sản xuất
ra bất cứ sản phẩm nào ta cần sao?”
Tuy
nhiên, dầu cuộc sống hiện đại của chúng ta có dễ dàng
và an toàn đến thế nào, thì chân lý về khổ cũng không
thay đổi. Nó vẫn có mặt như đã từng có mặt ở thời
Đức Phật. Con người vào những thời đại đó đã đau khổ,
và chúng ta hiện nay cũng thế.
Chúng
ta có thể gọi diệu đế thứ nhất của Đức Phật với
bằng nhiều tên tùy thuộc vào hoàn cảnh: khổ đau, căng thẳng,
sợ hãi, lo âu, bồn chồn, trầm uất, thất vọng, sân hận,
ghen tuông, ruồng bỏ, thần kinh hay đau đớn. Tất cả mọi
chúng sanh, không cần biết họ sống ở đâu, khi nào, đều
có thể đối mặt với những vấn đề này.
Chúng
ta có thể bị bệnh bất cứ lúc nào. Cũng có thể bị chia
ly với người thân yêu. Có thể đánh mất những gì đang
có hay bị đẩy vào những hoàn cảnh phải chấp nhận những
điều mà ta ghê tởm. Cha mẹ, con cái, vợ chồng, anh chị
em, hàng xóm, bè bạn, các cộng đồng và các quốc gia -tất
cả đều xung đột tranh đấu vì tiền bạc, địa vị, quyền
lực và biên giới. Một số những vấn đề này là do
tham, sân, và si tạo ra. Tất cả đều liên quan đến
những điều kiện ở bên ngoài -như xã hội, chính trị, kinh
tế, giáo dục, môi trường– và cả bên trong ta.
Nhận
ra rằng những điều này là không thể tránh khỏi khiến tâm
ta đau khổ vô ngần. Hãy nhận mặt và chấp nhận chúng như
chúng thật sự là, mà không trách móc, đổ lỗi cho người,
là trọng tâm của diệu đế thứ nhất của Đức Phật. Ngài
dạy rằng để bắt đầu tiến đến hạnh phúc, chúng ta cần
phải đối mặt với khổ đau -bằng tâm vững chãi và tình
cảm ổn định– mà không oán trách hay cảm thấy buồn nản,
bi quan. Chúng ta cần phải nhìn thẳng vào các vấn đề của
mình: bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống cũng mang đến
một mức độ khổ đau nào đó cho bất cứ những ai chưa
hoàn toàn giác ngộ.
Nỗi
khổ có thể rất vi tế, có thể chỉ là một trăn trở tiềm
ẩn. Hay rất rõ ràng, như sự chấp chặt vào người,
của cải, hay quan điểm. Tất cả tùy thuộc vào lòng tham,
sân và si của chúng ta sâu dầy bao nhiêu, và tùy thuộc vào
cá tính cũng như kinh nghiệm của chúng ta trong quá khứ.
Thí
dụ, có hai người cùng chứng kiến một sự kiện nhưng họ
có những phản ứng hoàn toàn khác nhau. Một người có thể
cảm thấy bình thản và chấp nhận; người kia có thể hoảng
sợ và lo âu. Hạnh phúc cũng như khổ đau đều do tâm
tạo. Tâm của chúng ta tạo ra những kinh nghiệm sống cho ta,
và tâm đó chấp nhận hay phản kháng sự tạo dựng này. Đó
là lý do tại sao Đức Phật nói chính chúng ta tạo ra
thiên đàng hay địa ngục ngay trong cuộc sống này.
Cho
đến khi chúng ta đạt được giác ngộ, sẽ còn có nhiều
hoàn cảnh mang đến bao thất vọng cho tất cả chúng ta. Hãy
thử nhìn chỉ ba vấn đề: kiếp nhân sinh, sự đổi thay,
và sự không thể làm chủ cuộc sống của mình.
KIẾP
NHÂN SINH
Vòng
xoay chuyển không thể tránh được của kiếp người –sinh,
già, bệnh, chết– mang đến bao khổ đau.
Người
ta được sinh ra trong cõi đời không phải với những nụ
cười rạng rỡ trên gương mặt. Nhưng càng lớn, tiếng khóc
thuở ban đầu càng bớt ồn ào hơn. Có thể nói rằng nó
đã được đổi thành tiếng khóc trong lòng cho suốt cuộc
đời còn lại của chúng ta. Chúng ta đã khóc vì bao lít sữa;
bao tấn thực phẩm; bao mét vải; bao mét vuông đất để xây
nhà, xây trường học, bao cây cối để làm sách vở, bàn
ghế; bao thuốc men cho đủ các loại bệnh; bao người để
họ yêu thương chúng ta; bao phương cách để thỏa mãn nhu
cầu của chúng ta. Nếu chúng ta không sinh vào thế giới đầy
bất ổn này, thì tất cả khổ đau đã không có mặt. Mỗi
đứa trẻ được sinh ra đời, thì hình như sự bất hạnh
cũng đã được sinh ra theo nó.
Quá
trình lão hóa cũng mang đến khổ đau. Có lẽ chúng ta không
còn nhớ đến những khó khăn khi phải thích ứng với một
môi trường mới hay một vị thầy mới, nhưng ta có thể nhớ
rất rõ những khó khăn khi phải thích ứng với sự thay đổi
về cơ thể và tâm lý ở tuổi dậy thì. Khi trưởng thành
ta lại phải thay đổi để thích ứng với công việc mới,
những tương quan mới, kỹ thuật hiện đại, các căn bệnh
lạ, những điều kiện xã hội mới. Những điều này
lại thường xảy ra trước khi ta hoàn toàn thích ứng với
những cái đang có. Các biến chuyển không dễ chịu này hình
như rất phổ biến ở mỗi bước ngoặt của cuộc đời.
Ở
tuổi già, việc thích ứng với những sự thay đổi càng trở
nên khó khăn hơn. Thật đau khổ khi không còn có sức
khoẻ, thân thể không còn cường tráng như lúc trẻ. Ta biết
rằng không thể chạy trốn tuổi già, nhưng vẫn mong nó đừng
đến. Do đó ta đau khổ.
Khi
Đức Phật thuyết rằng tuổi già mang lại đau khổ. Ngài
thực sự đang nói về sự già nua và hoại diệt nói chung. Chúng ta biết rằng mỗi tế bào trong cơ thể ta đang bị hủy
hoại hay chết đi, và các tế bào mới tiếp tục sinh sản.
Mọi trạng thái tâm cũng biến mất và được thay thế bằng
cái mới hơn. Lâu dần, quá trình hoại diệt và chuyển
đổi này làm suy yếu thân tâm ta, đưa đến cái chết.
Chắc
chắn bệnh tật cũng là nguồn gốc của khổ đau. Ai cũng
biết bệnh tật đau đớn thế nào. Bệnh tật thật ra
mang đến hai cái đau: sự sợ hãi căn bệnh và chính căn bệnh.
Do đó bệnh tật là nỗi ám ảnh triền miên, khiến ta khổ
đau khi bị bệnh và lo âu, sợ hãi khi ta còn mạnh khỏe.
Thông
thường người ta nghĩ rằng sự đau đớn và khổ đau là
đồng nghĩa, nhưng không phải thế. Dầu bạn khó thể
tránh được đau đớn vì bệnh hoạn, thương tật, nhưng
bạn có thể tránh được khổ đau vì bệnh tật. Khi bạn
giảm bớt được sự bám víu vào thân thọ một cách thái
quá, bạn sẽ bớt khổ đau khi nó đổi thay. Thí dụ, khi Devadatta
(Bồ Đề Đạt Đa) chọi hòn đá và làm chân Phật bị thương,
Đức Phật cảm nhận được cái đau. Nhưng vì Ngài đã hiểu
được bản chất của đau, Ngài không đau đớn như một người
bình thường. Cảm giác đau đớn thường có thể chế
ngự được. Nhưng khổ vì “một trạng thái nào đó”
thì sâu xa hơn và khó chế ngự hơn.
Cái
khổ kế tiếp trong kiếp người là tử -không chỉ giây phút
trước khi chết mà tất cả mọi thứ đưa đến cái chết.
Tất cả chúng ta đều sợ chết và lo lắng không biết khi
nào hay bằng cách nào chúng ta sẽ chết. Ta cũng biết rằng
khi chết, ta phải để tất cả mọi thứ lại phía sau. Chúng
ta có thể chịu đựng được điều đó không? Khi người
thân ra đi, chúng ta cảm thấy sốc, đau đớn, và mất mát
hàng năm trời nếu không nói là mãi mãi.
Nhưng
những khổ đau trong kiếp người không chấm dứt với cái
chết. Đức Phật dạy rằng cái chết không đoạn tận
được vòng luân hồi khổ đau. Một người đã từng trải
qua nhiều đau khổ có thể nói, khi gần chết, “Tôi không
muốn sinh trở lại nữa.” Nhưng chỉ ước nguyện như thế
không thể chấm dứt vòng luân hồi tái sinh. Khi nào chúng
ta còn vô minh về bản chất thật sự của thực tại, thì
kiếp sống này sẽ nối tiếp kiếp kia. Khi nào tham, sân và
si vẫn còn trong tâm thức chúng ta, thì vòng tái sinh vô cùng
tận –vòng luân chuyển của những kiếp sống trong quá khứ,
hiện tại, và tương lai - sẽ tiếp tục.
Trong
vòng luân hồi đó, những khổ đau mà chúng ta đã kể trên
sẽ lại tái diễn không dừng. Năng lượng của tất
cả những trải nghiệm này giống như một gánh nặng mà chúng
ta phải mang trên lưng từ kiếp sống này sang kiếp sống khác
trải qua bao lần tái sinh không thể kể xiết. Trong mỗi kiếp
sống mới, hành lý bên trong đó lại được chuyển sang một
cái túi mới. Khi chết, ta không đem theo được vật chất
gì. Tuy nhiên cái túi chứa năng lượng đó -dấu vết
của tất cả các tâm hành và tất cả những lời nói, hành
động cố ý trong kiếp sống này và những kiếp trước đó–
không chỉ đi theo chúng ta mà thực ra còn tác động đến
kiếp sống mới.
Cho
đến khi chúng ta có thể trút sạch những gì chứa đựng
trong túi xách đó –cho đến khi chúng ta có thể hủy diệt
tất cả những hậu quả mà ta đã tạo nên vì tham, sân, hay
si qua bao kiếp sống – chúng ta không thể trốn thoát cái
chết và sự luân hồi tái sinh. Chúng ta có thể sử dụng
sự suy nghĩ này để thúc đẩy ta hành động thế nào trong
cuộc đời này để đạt đến hạnh phúc giải thoát dài
lâu.
Chúng
ta đã biết tham và sân là các động lực mạnh mẽ cho hành
động, nhưng Đức Phật muốn nói si (vô minh) là gì? Tại sao vô minh lại đóng vai trò quan trọng đối với những
khổ đau mà ta phải nếm trải?
Vô
minh (si) trong thuật ngữ Phật giáo có hai ý nghĩa: “không
biết” –như là không biết Đức Phật hàm ý gì khi nói
đến Tứ Diệu Đế- và “biết sai” – như là tin rằng
chúng ta hiểu thế giới vận hành như thế nào trong khi chúng
ta thật sự không biết.
Không
hiểu biết sự thật về khổ, chúng ta nghĩ rằng có một
việc làm mới, một ngôi nhà mới, hay một bạn tình mới
sẽ mang đến cho ta hạnh phúc thực sự. Không biết năng lượng
của lời nói, hành động sẽ đi theo chúng ta như thế nào
từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, chúng ta để cho tâm
tham, sân, nghi và ganh tỵ sai khiển. Không biết rằng
một cuộc sống đơn giản, có kỷ luật, có bạn tốt, hành
thiền, và quán sát đầy chánh niệm về bản chất thực sự
của các trải nghiệm sẽ mang hạnh phúc đến cho chúng ta
trong kiếp sống này và nhiều kiếp kế tiếp, chúng ta đã
viện ra hàng triệu lý do để không tham dự vào những hoạt
động tích cực này.
Chúng
ta còn không biết ngay cả sự vô minh của mình. Sau một bài
thuyết pháp đặc biệt sâu sắc về bản chất của thực
tại, ngài Ananda, thị giả của Đức Phật, thưa với Ngài,
“Bạch Thế tôn, giáo lý này có vẻ rất thâm sâu, nhưng
đối với con, nó rõ ràng đúng như bản chất của sự rõ
ràng.”
Đức
Phật trả lời, “Không, không, đừng nói thế! Nó không
chỉ có vẻ thâm sâu, mà nó thực sự thâm sâu.” (D 15)
Vì
vô minh, sự hiểu biết của ngài Ananda đối với lời dạy
của Đức Phật chưa được thấu đáo, vì thế ông đã không
đạt được giải thoát ngay lúc đó. Giống như Ananda, vô
minh khiến chúng ta trôi lăn theo bao khổ đau trong luân hồi.
ĐỔI
THAY
Sự
đổi thay cũng khiến chúng ta khổ. Dầu chúng ta có làm gì,
sự đổi thay cũng chia cách ta khỏi những gì ta ưa thích và
mang đến cho ta những gì ta ghét bỏ. Cái chết và chia ly khiến
ta phải cách biệt người ta thương yêu. Bạn bè đi xa. Người tình rời bỏ ta. Những sự chia ly đó làm ta đau đớn
khôn cùng. Đánh mất thứ gì mà ta yêu thích khiến ta buồn
bã, tức bực. Ngay cả những thứ tầm thường cũng có thể
khiến ta phiền não khi chúng bị bể hay biến mất.
Hồi đó, khi lên bốn, có lần ngồi trên cát, tôi dùng đầu
ngón tay vẽ một vòng thật tròn trĩnh quanh tôi. Tôi thích
lắm! Chị tôi, lúc ấy khoảng bảy tuổi, đi ngang qua và dùng
chân xoá vòng tròn của tôi. Tôi giận dữ đến nỗi tôi rượt
theo chị, rồi lượm một cái ghế nhỏ nhưng nặng và ném
chị. Giờ chị vẫn còn một vết thẹo trên ngón chân.
Tất cả bao bực tức, giận dữ, tất cả những giọt nước
mắt và đau đớn, gây ra bởi một thứ thật tầm thường
và mong manh như là một vòng tròn trên cát!
Không
chỉ là việc đánh mất những gì ta yêu thích, mà ta còn phải
luôn đối mặt với những người hay những hoàn cảnh mà
ta không muốn chúng hiện hữu –ít nhất là không phải ở
đây, không phải ngay bây giờ. Phải chung sống hay làm việc
ngày này qua ngày khác với những kẻ ta không thích tạo ra
nhiều đau khổ. Ngay cả với những thứ ta không thể làm
chủ, như là thời tiết, cũng làm ta tức bực. Ở hội Bhavana
miền tây Virginia nơi tôi giảng dạy, người ta than phiền
khi trời nóng và ẩm. Nhưng rồi họ cũng than phiền khi
trời mưa lạnh. Khi trời nóng, họ than da và xoang mũi họ
bị ảnh hưởng. Khi trời lạnh, họ than phiền vì sợ té
trên tuyết. Và khi thời tiết thật tuyệt vời, họ than không
có thì giờ để tận hưởng!
Khi
nhìn lại quanh mình, ta thấy rõ ràng là tất cả mọi thứ
hiện hữu đều tạo ra khổ. Tại sao như thế? Thực ra tất
cả mọi thứ trên thế gian có mặt là do kết quả của một
nhân nào đó. Sự thay đổi trong áp lực không khí, gió,
và nhiệt độ là nguyên nhân của mưa. Một cội cây là kết
quả của hạt giống chúng ta trồng và ánh nắng mặt trời,
đất, và nước đã nuôi dưỡng nó. Cũng thế, sự hiện hữu
của chúng ta là sản phẩm của các nhân và duyên –nhân vật
lý trực tiếp của sự tạo giống của cha mẹ chúng ta và
nhân của những dấu ấn sâu hằn mà ta đã tích lũy trong
nhiều kiếp sống quá khứ.
Đức
Phật gọi những thứ này và tất cả những thứ khác phát
sinh từ các nhân là “pháp hữu vi.” Ngài giải thích
rằng tất cả các pháp hữu vi có ba đặc tính. Trước hết,
chúng vô thường. Với thời gian, tất cả -núi non, sâu bọ,
cây cỏ, máy móc- đều hư hoại, đổi thay, hay chết. Thứ
hai, do những sự thay đổi này, tất cả các pháp hữu vi đều
khổ. Như chúng ta đã thấy, tất cả mọi đổi thay đều
có thể gây ra đau khổ. Thứ ba, tất cả các pháp hữu vi
đều vô ngã. Đặc tính cuối cùng này là cái khó hiểu nhất,
vì thế tạm thời hãy để nó qua một bên.
Vô
thường không khó hiểu. Vấn đề không phải ở chỗ
sự thật là vạn vật đều tạm bợ. Mà chính là sự
bám víu của chúng ta đối với người hay vật gì đó -giống
như vòng tròn trên cát của tôi– khiến chúng ta đau khổ.
Thí dụ ta vừa mua được một cái áo khoác rất vừa ý. Sau khi mặc chỉ vài lần, nó bị dính sơn, vướng rách, hay
bị bỏ quên đâu đó, ta cảm thấy rất bực tức.
Dĩ
nhiên, một cái áo khoác bị rách hay bị mất không phải là
một đại bi kịch, ta có thể dễ dàng mua cái khác. Nhưng
nếu đó là món quà của người yêu ta tặng thì sao? Nếu ta mua nó để kỷ niệm một sinh nhật, một lễ lộc
hay một chuyến đi đặc biệt nào đó? Thì ta rất nâng
niu nó và khi nó bị đánh mất hay làm hư, ta sẽ rất đau
buồn.
Nói
về những điều này đôi khi khiến người nghe rất khó chịu. “Còn hạnh phúc thì sao?” họ hỏi. “Tại sao không
nói về những điều ấy? Tại sao chúng ta không nói về
niềm vui, hạnh phúc, sự sung sướng thay vì khổ?”
Câu
trả lời, thưa bạn, chính là sự đổi thay. Do vô thường,
bất cứ thứ gì dễ chịu, hạnh phúc, hay sung sướng, cũng
không duy trì được lâu. Là những người trưởng thành, thông
minh, chúng ta phải dám nói về những gì thực sự xảy ra
mà không cảm thấy phiền não. Chúng ta phải nhìn tận mặt,
sự đau khổ do vô thường tạo ra, và chấp nhận nó. Tại
sao phải che giấu nó và giả bộ như tất cả mọi thứ đều
màu hồng.
Khi
trực diện với vô thường, chúng ta có thể nhận thấy nó
cũng có những khía cạnh tích cực. Ta có thể tin chắc rằng
bất cứ hoàn cảnh nào đang hiện hữu trong cuộc đời ta
rồi cũng sẽ thay đổi. Có thể xấu hơn. Nhưng cũng có thể
tốt hơn. Do vô thường, ta có cơ hội học hỏi, phát triển,
trưởng thành, dạy dỗ, ghi nhớ và tạo ra những sự thay
đổi tích cực khác, kể cả việc tu tập theo Phật giáo.
Nếu tất cả vạn pháp đều bất di bất dịch thì không có
sự chuyển đổi nào có thể xảy ra. Kẻ vô học sẽ mãi
mãi là người vô học. Người nghèo đói sẽ vẫn nghèo đói.
Chúng ta cũng sẽ không có cơ hội để đoạn diệt, tham, sân,
si và những hậu quả tiêu cực của chúng.
Vậy
thì chúng ta đã hiểu về vô thường và những khổ đau mà
nó đã tạo ra. Giờ nói về vô ngã thì sao? Nó có liên
quan gì đến vô thường? Đức Phật đã dạy rằng vạn
vật trên thế gian đều vô ngã hay không có thực thể vì
chúng luôn chuyển đổi. Chúng ta và tất cả mọi vật chung
quanh đều không bền chặt, bất biến. Chúng ta không thể
dán cái nhãn hiệu “Tôi” hay “Của tôi” lên bất cứ
vật gì trên thế gian này. Tất cả đều thay đổi quá nhanh
chóng.
Với
thân, thọ, tưởng, hành, thức, và chủ tâm luôn biến đổi,
thì làm sao chúng ta có thể chỉ vào một vật gì đó và nói,
“Đây là cái của tôi” hay “Đây là tôi”? Ngay chính ý
nghĩ hay niềm tin “đây là tôi” cũng biến đổi nhanh chóng.
Do phương tiện, chúng ta có thể nói “tôi có mặt ở đây”
hay “cái này của tôi,” nhưng chúng ta phải nói những lời
này bằng tâm trí sáng suốt, không để bị dẫn dắt vào
sự suy nghĩ rằng chúng ám chỉ sự hiện hữu của một thực
thể bất biến, là “tôi” hay “cái của tôi.” Các
đối tượng vật chất cũng thay đổi không ngừng. Chúng
ta có thể dùng những cách đặt tên thông dụng và nói “đây
là cái ghế” hay “đây là con vượn,” nhưng các tên gọi
này khó mà phù hợp với thực tại luôn biến đổi như ta
đã biết.
Đúng
hơn, chúng ta và tất cả vạn pháp đang trong một tiến trình,
một dòng chảy không dừng của tăng trưởng và hoại diệt,
cấu thành rồi tan rã. Không có gì trên thế giới này
hay trong bản thân của chúng ta là khác biệt hay trường tồn.
Hãy quán sát tâm bạn trong một phút và bạn sẽ biết tôi
muốn nói gì. Ký ức, tình cảm, suy nghĩ, cảm xúc lướt qua
bức màn tâm thức quá nhanh đến nỗi ta khó bắt kịp chúng.
Vì vậy, thật là vô vọng khi tâm muốn bám víu hay xô đuổi
những chiếc bóng thoáng qua này. Khi tâm chánh niệm của
ta trở nên nhạy bén, như trong trạng thái thiền định sâu
xa, thì chúng ta có thể thấy rất rõ trạng thái vô thường
–quá rõ ràng đến nỗi không còn gì để tin tưởng vào
một cái ngã.
Có
người cảm thấy bi quan, thất vọng khi nghe về lý thuyết
vô ngã. Có kẻ còn nổi giận. Họ kết luận một cách lầm
lẫn rằng như thế có nghĩa là cuộc đời không có ý nghĩa
gì. Họ không hiểu rằng một cuộc sống không có ý niệm
về ngã là một cuộc sống dễ chịu và ý nghĩa nhất.
Có
lần tôi đưa bản thảo một bài viết cho một người bạn
biên tập. Anh là một biên tập viên chuyên nghiệp, nên tôi
đoán anh chỉ mất một giờ là xong việc. Vậy mà sáu
tháng sau, tôi cũng chẳng được tin tức gì. Cuối cùng
anh đến thăm và chúng tôi cùng nhau tản bộ. Khi anh không
nói gì về bài viết của tôi, tôi linh cảm rằng đó là một
đề tài tế nhị. Tôi gợi đến vấn đề một cách e dè,
cẩn trọng. Tôi hỏi, “Anh đã có thời gian xem qua bài viết
của tôi chưa?” Anh im lặng một hồi lâu rồi trả lời,
“Thưa đại đức, tôi đã xem qua. Đến đoạn về thuyết
vô ngã, tôi bực tức quá đến nỗi đã vứt đi cả bản
thảo!” Tôi ngạc nhiên, nhưng không giận anh. Thay vào đó
tôi buông xả sự bám víu vào bài viết của tôi. Anh ta đã
vứt bản thảo của tôi vì vô ngã, nên tôi cũng vứt cái
ngã liên quan đến bản thảo đó. Tôi đã có thể giữ thái
độ thân thiện, từ tốn và nhã nhặn. Tuy nhiên, người bạn
ấy lại trở nên lạnh lùng, khép kín, và khổ sở, vì sự
chấp ngã của bản thân.
Vì
thế có thể bạn cũng thấy rất khó chấp nhận ý niệm về
vô ngã. Tuy nhiên khi bạn còn duy trì ý niệm về ngã, cuộc
sống của bạn sẽ không thoải mái, cố chấp và khép kín,
còn người chung quanh sẽ cho bạn là một kẻ ngã mạn, rất
khó chịu. Bạn dễ bực bội hay tức giận khi có ai đó không
đồng ý hay trách móc bạn, khi sự việc xảy ra không
theo ý bạn hoặc làm bạn thất vọng và ngay cả khi người
ta góp ý với bạn một cách xây dựng. Hiểu đúng ý
nghĩa của vô ngã, bạn sẽ cảm thấy cởi mở, thoải mái
hơn. Bạn sẽ dễ dàng hòa đồng với tất cả mọi người,
kể cả người khác quốc tịch, vì bạn không cảm thấy mình
quan trọng hơn hay kém quan trọng hơn người khác, bạn sẽ
dễ dàng thích nghi với bất cứ hoàn cảnh nào, và mọi người
sẽ cảm thấy dễ chịu khi ở gần bạn.
Với
sự hiểu biết chân chính về vô ngã, bạn có thể cảm thấy
hạnh phúc và tự tại dầu ở đâu, dầu bạn được tiếp
đãi ân cần hay không. Đừng để ý niệm về vô
ngã làm bạn bi quan và cũng đừng để nó làm bạn bực tức.
Giờ
chúng ta tạm chấp nhận ý niệm này như một tri thức. Tuy
nhiên, với lòng kiên trì tu tập chánh niệm, một ngày nào
đó bạn sẽ nhận ra được tính chất vô ngã, không có thực
thể của vạn pháp một cách trực tiếp. Lúc đó, chúng ta
sẽ mãi mãi chấm dứt được những đau khổ do vô thường
mang đến.
Phật
và các vị đạo sư đã đạt được giác ngộ hoàn toàn là
bằng chứng cho điều đó. Đức Phật đã hoàn toàn giải
thoát khỏi ý niệm về “ngã.” Tuy nhiên, Ngài vẫn
tiếp tục sống trong cộng đồng xã hội sau khi giác ngộ.
Vì những quy ước chung và để việc giao tiếp được dễ
dàng, Ngài tiếp tục dùng các từ quen thuộc, như là “tôi”,
hay “của tôi.” Bạn cũng thể. Cái tên trên bằng lái xe
của bạn có thể không phải là một tên gọi tuyệt đối
đúng, bảo đảm cho một nhân dạng cố định, nhưng nó là
một phương tiện thích hợp theo đúng quy ước của xã hội.
Nhưng
khi chánh niệm giúp bạn nhận thức ra rằng “cái tôi” mà
bạn đã từng bảo vệ một cách quyết liệt, thật ra, chỉ
là một ảo giác -một dòng chảy của những cảm giác, tình
cảm và trạng thái vật lý không ngừng biến đổi, mà không
có một thực thể cố định hay thường hằng nào– lúc đó
sẽ không còn có “bạn” để gắn kết với những thứ
vô thường trên thế gian này, do đó không có lý do gì để
bạn phải buồn phiền hay đau khổ.
KHÔNG
KIỂM SOÁT ĐƯỢC
Nếu
có thể thực sự làm chủ cuộc đời mình, chúng ta đã không
có lý do gì để đau khổ. Nhưng chúng ta không có quyền lực
đó. Trái lại, ta thường không được cái mình muốn,
mà lại được cái mình không muốn.
Chúng
ta muốn có một việc làm thích hợp, văn phòng tiện nghi,
ông chủ tốt bụng, mức lương cao này kéo dài mãi, nhưng
chúng thay đổi, mà chúng ta không thể biết tại sao hay khi
nào nó xảy ra. Chúng ta muốn người thân yêu ở mãi
bên mình, nhưng dầu ta giữ họ chặt đến đâu, một ngày
kia rồi ta và họ cũng phải chia lìa. Để giữ sức khoẻ,
chúng ta uống thuốc bổ, thể dục, ăn uống điều độ, nhưng
chúng ta vẫn bệnh. Chúng ta muốn được trẻ mãi, và luôn
mạnh khoẻ, với tin tưởng rằng tuổi già chỉ đến với
người khác, nhưng thời gian qua đi, rồi ta khám phá ra rằng
cơ thể ta không còn như trước. Bất cứ hoàn cảnh lý
tưởng nào mà chúng ta đang có, dĩ nhiên là ta muốn giữ nó
mãi. Nhưng ta không có quyền lực gì đối với luật vô thường.
Tất cả mọi hiện hữu đều tuân theo quy luật đó, và ta
không thể làm gì khác hơn.
Đôi
khi có những việc bất ngờ xảy ra cũng khiến cho chúng ta
phiền não. Thí dụ bị ong đốt. Chương trình TV
mà bạn mong đợi bị hủy bỏ. Xe bạn bị trộm. Bạn
bị mất việc. Người thân bị ung thư. Ảnh kỷ niệm bị
cháy mất. Con bạn bị tai nạn xe hay dính vào ma tuý.
Tai tiếng, đổ lỗi, sự nhục nhã, thất bại, đói khổ,
mất của cải, mất tình yêu, cơ thể không còn được như
xưa –quá nhiều những thứ bất hạnh, không mong cầu xảy
đến cho ta và cho những người ta muốn bảo vệ. Nhưng
chúng ta không thể làm bất cứ điều gì.
Có
thể bạn sẽ nói: “Thôi đủ rồi!” Nhưng tôi vẫn còn
muốn nói thêm vài điều. Nếu quán sát thấu đáo, chúng
ta có thể thấy rằng ngay nếu như các ước muốn của mình
có thành hiện thực, thì điều đó cũng mang lại khổ đau.
Thí
dụ bạn muốn có một căn nhà đẹp. Vì thế bạn đã mua
nhà, sau đó có bao nhiêu phiền phức bạn phải trải qua. Bạn phải trả góp tiền nhà, tiền thuế, gìn giữ nó, bảo
hiểm nó, sửa sang, trang hoàng và duy trì nó. Nhưng bạn đâu
có ở nhà nhiều. Sáng sớm bạn đã phải đi làm việc. Buổi
chiều, có thể bạn đi dự tiệc hay xem phim, về nhà chỉ
để ngủ năm hay sáu tiếng, rồi lại đi nữa. Chắc
chắn là nhà bạn rất to, rất đẹp. Nhưng bạn phải tiếp
tục trả các món nợ, rồi cắt cỏ, sửa mái nhà, dọn dẹp
garage. Bạn đã được thỏa nguyện ước, nhưng bạn có hạnh
phúc không?
Lấy
một thí dụ khác. Một thanh niên thích một cô gái, và cô
ta cũng thích anh. Mỗi người đều cố gắng để lôi cuốn
người kia. Nhưng ngay từ lúc bắt đầu mối quan hệ, họ
đã phải sống trong sợ hãi. Chàng thanh niên sợ người
bạn gái sẽ thương một người khác đẹp trai hơn, còn cô
gái thì sợ một người đàn bà khác quyến rũ hơn sẽ cướp
mất anh. Họ tràn đầy lòng ghen tuông, nghi ngờ, lo lắng. Đó có phải là hạnh phúc?
Còn
bao nhiêu thí dụ khác nữa. Chỉ cần mở báo ra. Đọc
về người may mắn đã trúng số độc đắc, rồi từ đó
phải sống một cuộc đời khổ sở đến thế nào! Đó
là lý do tại sao người ta nói chỉ có hai bi kịch trong đời:
không được điều mình muốn, và được điều mình muốn.
CÁI
NHÌN THỰC TẾ
Đức
Phật đã cố gắng chỉ rõ cho chúng ta thấy tất cả các
pháp hữu vi đều mang đến đau khổ cho người chưa giác ngộ.
Ngài liệt kê “năm uẩn” có mặt trong tất cả mọi khía
cạnh của thực tại: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. “Sắc”
chỉ tất cả những hiện hữu vật chất -kể cả thân và
tất cả những thứ ta tiếp xúc qua các giác quan.
Bốn
uẩn khác thuộc về tâm. Ở cuối bản liệt kê của tất
cả các pháp mang đến đau khổ, Đức Phật nói, “Tóm lại,
sự bám víu vào năm uẩn mang đến khổ đau.” (D 22)
Điều
này có nghĩa là gì? Tại sao khổ bao trùm mọi khía cạnh của
cuộc đời? Nhưng theo lời Phật dạy, khổ hay không là do
ta cảm nhận và suy nghĩ thế nào về mọi sự vật. Điều
này xảy ra như thế nào thì rất vi tế.
Ai
cũng biết rằng họ cảm nhận thế giới qua các giác quan.
Chúng ta thường nói về năm giác quan, qua đó chúng ta nghe,
thấy, ngửi, nếm và xúc chạm. Đức Phật cũng nói đến
một giác quan thứ sáu, đó là tâm, vì tâm chúng ta cũng cảm
nhận được ý nghĩ, tư tưởng, hình ảnh trong tâm trí và
xúc cảm.
Những
gì các giác quan thực sự tiếp nhận là các dữ liệu thô
của kinh nghiệm hay, trong trường hợp của tâm, đó là các
tâm ảnh của kinh nghiệm –màu sắc, hình dáng, kích cỡ,
đậm nhạt, cứng, thô, hay mịn màng. Dĩ nhiên, chúng ta cũng
biết mỗi người có những cảm nhận khác nhau tùy thuộc
vào trạng thái tâm và các giác quan của người cảm nhận. Một người bị cảm có thể không ngửi được mùi hay nếm
được vị. Người khiếm thính có thể không nghe được những
âm thanh trầm. Vì thế tưởng có tính chất chủ quan tùy thuộc
vào các căn của người cảm nhận.
Chúng
ta ý thức được sự khác biệt này, nhưng tâm vẫn lừa dối
được ta. Nó khiến ta tin sự cảm nhận của mình là chính
xác, đáng tin cậy. Nó đưa ta đến việc xem những tính chất mà ta cảm nhận được đương nhiên thuộc về đối tượng
mà ta đang quán sát, hơn là kết quả của các duyên hợp,
kể cả các giác quan của ta.
Không
chỉ có vậy. Sau khi cảm nhận một điều gì đó, tâm ta lập
tức phân loại hay phán đoán, rồi xếp vật đó hay kinh nghiệm
đó vào một trong ba chiếc hộp. Chiếc hộp đầu tiên được
dán nhãn là các cảm thọ dễ chịu –như là hương vị của
bánh mì mới nướng, một bản nhạc hòa tấu, một buổi hoàng
hôn rực rỡ. Chiếc hộp thứ hai chứa đựng các cảm thọ
khó chịu –ký ức về cái chết của người cha, một cơn
nhức đầu, tiếng còi xe cảnh sát hụ. Và chiếc hộp thứ
ba chứa đựng các cảm thọ trung tính -tất cả các pháp,
các kinh nghiệm mà chúng ta phản ứng một cách trung tính đối
với chúng.
Dĩ
nhiên là sau đó tâm ta, vì chưa hoàn toàn giải thoát khỏi
bám víu, đã cố chấp chặt lấy những điều dễ chịu. Vì
ghét bỏ, ta xô đẩy những thứ khó chịu. Vì vô minh (si),
ta phớt lờ những thứ trung tính, và chúng ta coi tất cả
các pháp -dễ chịu, khó chịu, hay trung tính- là thường hằng,
là có một cái ngã hay linh hồn, là có khả năng đem đến
cho ta hạnh phúc dài lâu hay khiến ta khổ triền miên.
Đức
Phật đã giải thích về ảnh hưởng của sự cảm nhận sai
lầm hay thiên lệch này như sau:
Do
nhân con mắt và các sắc pháp, nhãn thức khởi lên. Sự gặp
gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên có cảm thọ.
Những gì có cảm thọ thời có tưởng, những gì có tưởng
thời có suy tầm, những gì có suy tầm thì có hý luận. Do
hý luận ấy làm nhân, một số hý luận vọng tưởng ám ảnh
một người, đối với các sắc pháp do con mắt nhận thức,
quá khứ, tương lai và hiện tại. (cũng thế đối với tai,
mũi, lưỡi, thân, và ý). (M 18 [do tỳ kheo Bodhi chuyển sang
Anh ngữ; Hòa Thượng Thích Minh Châu, Việt ngữ])
Trái
lại, với sự nhận thức (tưởng) thực tế, chân chính, thì
không có sự bám víu hay phản kháng nào. Nó sẽ chấp
nhận vô thường, khổ, và vô ngã như chúng thực sự là. Khi chúng ta cảm nhận thế giới với cái nhìn thiện mỹ,
là ta đã vun trồng các thiện ý. Cái nhìn thực tế là một
phương cách chữa trị tốt nhất. Nếu chúng ta có thể
nhìn vạn pháp (sự vật và con người) như chúng thực sự
là -với tính chất vô thường, khổ, vô ngã –thì không có
cảm nhận gì có thể khiến ta đau khổ.
Cái
nhìn thực tế là mục đích của thiền quán chánh niệm. Thực
tế có nghĩa là không trốn tránh những điều không tốt đẹp
về bản thân cũng như về thế giới.
Qua
sự ý thức một cách chánh niệm, chúng ta tập nhìn sự hiện
hữu một cách thực tế nghĩa là không phải luôn tốt đẹp,
dễ chịu hay hạnh phúc. Mà cuộc sống là một hỗn hợp của
đau khổ lẫn niềm vui. Chúng ta ghi nhận được những khổ
đau về thể xác hay tâm hồn lúc nó vừa chớm xuất hiện
và theo dõi xem nó phát triển như thế nào. Ta cũng quán sát
xem tình trạng đó kéo dài bao lâu, rồi hoại diệt như thế
nào. Thiền chánh niệm hoạt động giống như bộ phận giảm
sốc trong xe hơi. Nếu bạn đã quen đối đầu với những
thất vọng khổ đau trong cuộc sống hằng ngày và biết rằng
đó là những sự kiện xảy ra một cách tự nhiên, thì khi
một hoàn cảnh khó khăn hay đau khổ xảy đến, bạn sẽ đối
mặt với nó một cách can đảm và bình tĩnh.
Khi
ta có thể nhìn tận mặt khổ đau mà không nao núng, thì ta
cũng có thể nhận diện được hạnh phúc chân thật.
Diệu Đế
Thứ Hai:
Nguồn Gốc
Của Khổ Đau
Diệu
Đế thứ hai của Đức Phật cho chúng ta biết nguồn gốc
của khổ đau là ái dục, mà chúng ta cũng có thể gọi là
bám víu, tham luyến hay chấp. Không quan trọng đối tượng
là gì –có thể là một bữa ăn ngon, một người bạn thân,
hay một mục đích tâm linh cao quý- nhưng nếu bám víu vào
đó, bạn sẽ cảm thấy thất vọng, khổ đau.
Bạn
có thể hỏi ái dục từ đâu đến? Nguồn gốc rõ ràng nhất
là bản năng –lòng ham muốn được sinh tồn, ham muốn được
có thực phẩm, quần áo, chỗ trú ngụ, sự ấm áp, sự phong
phú, sự thỏa mãn. Lòng ham muốn dường như đã được cài
đặt trong con người, cũng như súc vật. Ngay chính cỏ cây
hình như cũng có một số ham muốn, vì chúng luôn hướng về
phía mặt trời để có ánh sáng và sự ấm áp. Một nguồn
gốc khác của ái dục là những điều kiện xã hội -tất
cả những quan điểm và giá trị mà chúng ta học được từ
cha mẹ, gia đình, bạn bè, học đường, quảng cáo, và sách
vở, điều kiện hóa ta khiến ta tin rằng điều này tốt,
điều kia xấu.
Lòng
ham muốn mạnh mẽ nhất dựa trên các lạc thọ. Cuộc
sống mang lại cho chúng ta biết bao sung sướng khóai lạc qua
từng giác quan. Thí dụ, nhãn quan: mắt của bạn thì khả
ý và khả lạc. Nhãn thức cũng khả ý và khả lạc,
cũng như nhãn căn, nhãn trần, cảm thọ về cái thấy, sự
nhận biết hình ảnh, lòng ham muốn đối với những đối
tượng của mắt, những hình ảnh tưởng tượng, những tư
duy có chủ ý, vân vân. Tương tự tai, mũi, thân và ý
cũng mang đến các lạc thọ. Mỗi ngày ta đều có cơ hội
để tận hưởng những đối tượng khả ý và khả lạc qua
các giác quan. Tuy nhiên ta vẫn không hạnh phúc.
Trong
diệu đế thứ hai này, Đức Phật khuyên ta nên nhận biết
rằng sự bám víu vào dục lạc rất nguy hại cho hạnh phúc. Ngài đã so sánh dục lạc với một mẩu xương không còn thịt
được vứt cho một con chó đói. Dầu chú chó gặm cục
xương rất lâu, nhưng cục xương chẳng bao giờ có thể thỏa
mãn được cơn đói của nó. Suy gẫm lại ta có thể
thấy mình cũng giống như thế. Dầu có hưởng bao nhiêu
dục lạc, ta vẫn không thỏa mãn, vẫn còn muốn hơn thế
nữa.
Bao
nhiêu bánh, bao nhiêu kẹo thì đủ? Bao nhiêu trò chơi trực
tuyến bạn cần tham gia? Bao nhiêu quyển tiểu thuyết
bạn cần đọc để thỏa mãn lòng ham muốn hưởng thụ của
bạn? Bao nhiêu hoạt động tình dục ta cần có để thỏa
mãn sự khao khát tình dục? Bao nhiêu rượu hay bao nhiêu ma
tuý? Đôi khi người ta thức thâu đêm suốt sáng để ăn chơi
cho đến khi gục ngã. Vậy họ đã hưởng đủ chưa? Hay bao giờ cũng có những trò chơi khóai lạc khác mà họ
chưa nếm qua.
Đức
Phật đã so sánh dục lạc với một lưỡi gươm bén thấm
đầy mật ngọt trên lưỡi dao. Để nếm được mật, ta có
thể phải chịu nhiều đớn đau. Có biết bao câu chuyện
về những người tự làm tổn thương bản thân, đôi khi cả
tánh mạng, để tìm được khóai lạc. Vài năm trước
đây có một chuyện đăng báo về người công nhân đang sửa
mái nhà, khi nhìn xuống qua cửa kính trời, anh ta bắt gặp
người đàn bà khỏa thân đang đi lại trong nhà. Để
nhìn kỹ hơn, anh chòm người tới cửa kính, chẳng may trợt
té khỏi mái nhà và bị thương nặng.
Rượu
chè, ma túy, những cuộc du lịch thám hiểm, các trò thể thao
nguy hiểm –chưa kể đến những hành động tình dục bừa
bãi- đã khiến nhiều người phải khổ.
Hơn
thế nữa, ta không thể kéo dài dục lạc. Giống như một
giấc mơ, dục lạc thỏang qua đi. Chúng nhanh chóng vuột khỏi
tầm tay, khiến bạn không còn gì để giữ lại ngoại trừ
cảm giác và ký ức. Giống như những món đồ vay mượn,
ta không thể giữ chúng lâu. Vì thế bạn càng tham đắm
vào loại dục lạc nào, thì nó càng mang đến thương tổn
cho bạn khi thời gian, sự đổi thay, hay hoàn cảnh không thể
tránh được, tước đoạt nó đi.
Ái
dục phát sinh từ cảm giác của khóai lạc và đau đớn. Khi
được hưởng thụ khóai lạc, thì ta sinh lòng ham muốn nắm
giữ, duy trì nó. Khi bị phiền não, đau khổ, thì ta có lòng
muốn đuổi xô hay trốn tránh nó. Vì sự tham đắm của ta
đối với các lạc thọ, và sự phản kháng của ta đối với
các khổ thọ, ta sẽ không ngừng tìm kiếm các trải nghiệm
mang đến nhiều khóai lạc hay trốn tránh được khổ đau. Một khi đã tìm được điều gì đó có thể thỏa mãn được
mục đích này, ta sẽ trở nên thành kiến và phân biệt. Trạng
thái tâm này khiến ta trở nên chấp thủ. Để bảo vệ
và gìn giữ được những gì đang có, người ta sẵn sàng
nói dối, làm hại, sỉ nhục người khác, hay ngay cả sử
dụng vũ khí để bảo vệ những gì họ nghĩ là sở hữu
của họ.
Lòng
ham muốn cũng đưa đến sự dằn vặt tâm lý. Vì các cảm
thọ phát khởi từ việc xúc chạm với những gì mang đến
dễ chịu –qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý– con người
suy tư và lý luận, lập giả thuyết, triết lý hóa, phỏng
đoán và tưởng tượng. Họ trở nên bám víu vào tà kiến
và những niềm tin bất chính. Hồi tưởng lại những dục
lạc trong quá khứ, họ còn dựng nên các tư duy, niềm tin
và lý thuyết đầy dục vọng.
Có
người quá chìm đắm trong ham muốn đến nỗi họ nguyện
sẽ tái sinh để được hưởng tất cả các dục lạc
đó nữa. Người khác, trái lại, vì những kinh nghiệm
khổ đau mà họ đã trải qua, không muốn tái sinh: “Vậy
là đủ rồi,” họ nói. “Một kiếp là đủ rồi. Tôi
không muốn những thứ này nữa.”
Tóm
lại, lòng ham muốn phát xuất từ vô minh –không biết rằng
không có gì trường tồn và không biết rằng dục vọng mang
đến khổ đau. Khi các giác quan tiếp xúc với những
trần cảnh mang đến sự dễ chịu, tâm si mê phát khởi ý
muốn nắm bắt và giữ chặt nó lại. Ngược lại cũng
thế. Khi các giác quan xúc chạm với điều gì khó chịu,
tâm si mê phát khởi ý muốn chạy trốn hay xa lánh nó. Vì
sự tác ý này, con người có những hành động bất thiện
nơi thân, khẩu, và ý, bất chấp hậu quả. Vì lòng ham
muốn, người ta bóp méo sự thật và trốn tránh trách nhiệm
cá nhân đối với các hành động của họ.
CHỊU
TRÁCH NHIỆM CHO HÀNH ĐỘNG CỦA MÌNH
Giáo
lý về nhân quả của Đức Phật đã nói rõ rằng việc chấp
nhận trách nhiệm cho hành động của mình là nền tảng cho
sự tự tại vẹn toàn của mỗi cá nhân. Không chấp nhận
sự thiếu sót của mình rồi đổ lỗi cho thế giới về sự
bất hạnh của mình, sẽ khiến ta phải đắm chìm trong đau
khổ. Ai cũng có những điều không vừa ý. Nhưng khi bạn
còn trách móc, đổ lỗi cho cha mẹ hay xã hội về những vấn
đề của mình, thì bạn đã tự cho mình một lý do để không
sửa đổi. Ngay giây phút bạn biết nhận trách nhiệm cho hoàn
cảnh của mình, dầu người khác cũng có góp phần vào đó,
là bạn đã bắt đầu hướng đến con đường tích cực hơn.
Theo
tôi, chúng ta bóp méo sự thật và trốn tránh việc nhận lãnh
trách nhiệm cá nhân bằng ít nhất ba phương cách. Thứ nhất,
ta cho rằng thế giới bên ngoài mang đến đau khổ cho chúng
ta. Kết quả là, ta hướng tất cả mọi nỗ lực và khả
năng tinh thần ra bên ngoài. Ta dồn hết công sức, và đôi
khi còn trở nên mù quáng, trong việc cố gắng sửa đổi người
xung quanh, như thể là sự hoàn toàn của họ sẽ đem lại
giải thoát cho ta. Hoặc chúng ta cố gắng thay đổi xã hội,
tưởng rằng việc sửa đổi những cái ác trong xã hội sẽ
giải quyết vấn đề của bản thân ta: “Khi đói khổ, chiến
tranh, và ô nhiễm môi trường được dẹp bỏ, thì tôi mới
được hạnh phúc.”
Dĩ
nhiên, ước muốn hoàn thiện xã hội cũng là điều đáng
khuyến khích. Chúng ta thấy đồng loại đau khổ như thế
nào, ta cảm thông với họ, và ta hành động để xoá bỏ
khổ đau cho họ. Nhưng thường ta không nhận ra rằng trong
khi cố gắng để giải quyết vấn đề cho người khác, ta
quên hay đè nén vấn đề của chính mình. Lý do của chúng
ta là: có quá nhiều những tệ nạn xã hội cần được sửa
đổi, ta không có thời gian để lo cho mình.
Thực
ra, chúng ta thiếu sự chân thật và can đảm để quán xét
chủ đích thực sự của mình. Những người tham gia các hoạt
động xã hội có thể rất từ bi và có tâm phục vụ, nhưng
cũng có người không nhìn ra mục đích thực sự của họ.
Chúng ta ai cũng biết rằng giúp đỡ người khó khăn hơn mình
mang đến cho ta một cảm giác đầy quyền lực mà ta không
thể có được đối với những người không phụ thuộc vào
ta. Ước muốn được có quyền lực là một bản năng cơ
bản. Cần phải có nhiều lòng chân thật để nhận ra bao
nhiêu phần trong những gì ta làm cho người khác phát xuất
từ động lực này. Nhận ra được chủ đích thực sự phía
sau các hành động của chúng ta có thể giúp ta chú tâm vào
công việc quan trọng hơn tất cả là xếp đặt việc nhà
của mình yên ổn trước khi cố gắng cứu giúp người khác.
Lý
do thứ hai mà chúng ta dùng để tránh nhận lãnh trách nhiệm
cho hành động của mình là nhất quyết cho rằng chúng ta không
có vấn đề gì. Chúng ta chỉ quan tâm đến hạnh phúc và
mục đích của riêng mình mà không để ý gì đến việc hành
động của ta có thể ảnh hưởng đến người khác như thế
nào. Trong tiềm thức, ta có thể nghĩ rằng thế giới bên
ngoài không quan trọng, hay không có thực. Nếu có
thể lắng nghe sự suy nghĩ của chính mình, có lẽ ta sẽ nghe
mình tự nhủ, “Chỉ có tôi là hiện hữu, và chỉ có những
gì tôi quan tâm đến là quan trọng –ngoài ra không có gì
nữa.”
Có
thể tất cả chúng ta đều biết đến những nhân vật tuyên
bố coi trọng giá trị này, giá trị nọ, nhưng âm thầm hành
động ngược lại với những điều đó.
Những
người này chỉ quan tâm đến bản thân họ. Có người cũng
thành thật nhận rằng họ bị lôi cuốn theo sự ham muốn
được thành công về tài chánh, quyền lực, hay sự nổi tiếng.
Tuy nhiên, họ cũng tìm cách để tránh chịu trách nhiệm cho
các hành động của mình. Họ tự dối bằng cách tư duy rằng
những mục đích cá nhân mà họ theo đuổi quan trọng hơn
bất cứ thứ gì khác. Họ tự lừa dối bằng cách tin rằng
nếu đạt được mục đích họ sẽ hạnh phúc, mà không cần
biết là ai sẽ bị tổn thương trên đường đi của họ.
Cách
thứ ba để chúng ta trốn tránh các vấn đề cá nhân đơn
giản là chạy trốn chúng. Tất cả chúng ta đều làm như
thế. Xem TV hay lục tủ lạnh kiếm đồ ăn là cách ta thường
làm để tránh khỏi phải tự nhìn lại mình một cách chân
thật. Bạn ru ngủ thân tâm bằng sự êm ái, dễ chịu rồi
chìm vào giấc ngủ. Thời gian sẽ qua đi. Trừ việc trở nên
già đi và mập thêm, thì không có sự thay đổi nào xảy ra
cho ta. Thử thách ở đây là có can đảm để hỏi tại sao.
Tất
cả chúng ta, không ít thì nhiều, đều đã từng sử dụng
các phương cách này để trốn tránh trách nhiệm, và chúng
cũng tạm thời mang đến cho ta sự an ủi, hạnh phúc ngắn
ngủi. Nhưng không có gì mang đến một giải pháp lâu dài,
đích thực cho các vấn đề của ta. Dầu ta có cố gắng để
thay đổi thế giới, phớt lờ thế giới, hay tách mình ra
khỏi thế giới, ta cũng không thể trốn tránh trách nhiệm
cuối cùng cho hành động của mình. Cuộc sống có lúc lên,
lúc xuống, và chính chúng ta tạo ra chúng. Chính phương tiện
này của chúng ta -sự kết hợp của thân và tâm– phải chịu
muôn vàn khó khăn. Điều duy nhất ta có thể làm, theo giáo
lý của Đức Phật, là tìm cách để hoàn thiện hơn công
cụ duy nhất có quyền năng mang đến hạnh phúc cho bản thân
ta và thế giới. Công cụ đó chính là tâm của chúng
ta.
Diệu Đế
Thứ Ba:
Đoạn Diệt
Khổ Đau
Sự
thật thứ ba là lời hứa khả của Đức Phật rằng khổ
đau có thể được đoạn trừ. Sự chấm dứt đó xuất
phát từ việc hoàn toàn diệt bỏ mọi chấp thủ, mọi ái
dục của chúng ta. Giờ thì ta đã bắt đầu hiểu về nhân
quả của hành động cá nhân của mình và chấp nhận trách
nhiệm cho lời nói, hành động và ý nghĩ của mình. Ta
có thể thấy rằng chính ta đóng một vai trò rất quan trọng
trong việc chấm dứt sự đau khổ của bản thân. Tuy nhiên
ở thời điểm này thật khó để ta có thể cảm nhận được
cảm giác hạnh phúc trọn vẹn ra sao. Cuộc sống sẽ như thế
nào nếu không còn có sân hận hay tham muốn nữa?
Các
đệ tử của Đức Phật cũng đã có những thắc mắc như
thế. Một lần, ngài Xá Lợi Phất, một trong hai vị đại
đệ tử của Đức Phật, và chính ông cũng là một vị thầy
đã giác ngộ, đang có cuộc thảo luận với một nhóm các
vị tu sĩ. Họ hỏi rằng: “Thưa Đại đức, trạng thái
hạnh phúc toàn vẹn, mà Đức Phật gọi là niết bàn, không
phải là thứ hạnh phúc dựa trên kinh nghiệm cá nhân. Làm sao có thể có một cái gì đó không được trải nghiệm
mà được gọi là hạnh phúc?”
Ngài
Xá Lợi Phất trả lời, “Đó là lý do tại sao nó được
gọi là hạnh phúc.” (A IV (9) IV 3)
Nói
cách khác, hạnh phúc bao gồm những gì không phải trải qua.
Diệu đế thứ ba dạy rằng hạnh phúc xóa sạch tất cả
mọi trạng thái tâm tiêu cực -tất cả tham, sân, si. Cuối
cùng khi chúng ta đã thành công trong việc dập tắt các ngọn
lửa nội tâm làm cháy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và tâm,
thì lúc đó ta sẽ chứng nghiệm được hạnh phúc toàn vẹn,
thanh tịnh tuyệt đối. Có thể khó tưởng tượng ra trạng
thái đó cảm giác như thế nào, nhưng cách duy nhất để tự
khám phá ra điều đó là bước theo con đường đạo dẫn
đến mục đích đó.
Giống
như phần đông chúng ta, các vị tu sĩ tham vấn với Ngài Xá
Lợi Phất muốn biết ngay từ khi mới bắt đầu con đường
đoạn cuối của nó ra sao. Điều này cũng giống như khi ta
hỏi một bé gái, “Cháu cảm thấy thế nào khi sanh em bé?”
Cô bé đó chưa hề sanh nở. Em phải lớn lên và trưởng thành
để có được kinh nghiệm đó. Cô bé có thể nói đôi chút
về sự sanh nở từ những điều em được đọc hay đã nghe
qua, nhưng em không thể diễn tả hoàn toàn tất cả kinh nghiệm
đó.
Ngay
chính mẹ em có thể cũng không có khả năng để nhớ lại
lúc sanh nở ra sao. Bà có thể nói về kinh nghiệm của bản
thân, nhưng khi người nghe chưa bao giờ có kinh nghiệm sanh
nở thì cũng không thể hiểu người mẹ ấy cảm giác thế
nào.
Hạnh
phúc thường hằng của giác ngộ cũng giống như thế. Chỉ
có những người đã qua các giai đoạn tu tập và đã tự
mình trải qua chứng nghiệm đó mới có thể hiểu được.
Thí
dụ cô bé đó đến hỏi cha mình, “Ba ơi, liên hệ của ba
với mẹ là như thế nào?”
Người
cha có thể trả lời, “Con ơi, hãy ra ngoài chơi đi. Cha sẽ
nói cho con biết sau này.” Có lẽ, khi cô bé đã trưởng thành,
đến tuổi lập gia đình, người cha mới nói với con gái,
“Lâu rồi con đã hỏi cha về sự liên hệ giữa cha với
mẹ con là gì. Giờ con có muốn nghe câu trả lời không?”
Người
con gái trả lời, “Không, thưa ba, con đã biết câu trả lời.”
Người
con gái đã trưởng thành trong hiểu biết. Cô đã tự biết
câu trả lời. Nếu một kinh nghiệm thế tục như là sự liên
hệ giữa một người nam và một người nữ đã khó trả
lời như thế, hãy tưởng tượng xem để hiểu được hạnh
phúc toàn vẹn của sự giải thoát khỏi khổ đau còn khó
đến ngần nào!
Hiện
tại, tâm ta tràn đầy bao suy tưởng, quan niệm, thiên kiến,
mà đa số xuất phát từ lòng tham, sân, và si. Cố hiểu cho
được sự nhiệm mầu của hạnh phúc toàn vẹn trước khi
ta diệt bỏ được các tâm tiêu cực là điều không tưởng.
Ta không thể làm gì hơn là dựa vào các ẩn dụ, ngụ ngôn,
kinh sách do các bậc chứng ngộ kể lại và cố gắng suy luận
để có được chút hiểu biết nào đó. Thí dụ:
Thởi
xa xưa có một chú rùa sống giữa một đàn cá và những sinh
vật biển khác, bỗng nhiên rùa biến mất. Khi rùa trở
về, bọn cá hỏi nó đã đi đâu.
“Tôi lên mặt đất,” con rùa trả lời chúng.
Chúng lại hỏi, “Nước trên mặt đất ra sao?”
Rùa trả lời, “Mặt đất không có nước.”
“Vậy sao anh bơi được?”
“Tôi không bơi. Tôi đi.”
“Đi? Anh nói ‘đi’ là sao? Và anh có thấy nhiều cá
trên đó không?”
Khi
rùa cố gắng giải thích, đàn cá nói một cách nghi ngờ,
“Không có nước; không có cá; anh không lội được; và anh
nói rằng anh ‘đi’. Làm sao có thể như thế được?”
Rùa
trả lời, “Các bạn muốn hiểu sao cũng được. Còn
tôi, tôi sẽ trở lên đất liền.” Nói xong, rùa bỏ
đi.
Cũng
giống như đàn cá không thể hình dung về ý nghĩa của đất
liền, người còn đầy phiền não do tham, sân, si, không thể
hiểu được niết bàn. Để có thể tuệ tri được điều
đó, ta phải chuyển hóa tất cả các trạng thái tâm tiêu
cực và tự mình chứng nghiệm giác ngộ.
Hiện
tại thì kinh nghiệm gần gủi nhất đối với hạnh phúc của
giác ngộ là trạng thái tâm thanh tịnh mà thỉnh thỏang chúng
ta có thể đạt được khi buông xả được các gánh
nặng của mình trong một giây phút nào đó, khi tâm chỉ là
“tâm” chứ không có gì trong đó nữa. Sự hiểu biết
do suy luận mà ta có được ở những lúc như thế, có thể
so sánh với việc ta đang đi trên sa mạc và cảm thấy mệt
mỏi, đói khát. Rồi ta tìm được một chiếc giếng
sâu với ít nước ở dưới đáy nhưng chung quanh không có
gào múc hay dây kéo. Nhưng ta đã quá suy nhược, không còn
sức lực để bện một cái gào múc nước. Vì thế dầu là
ta có thể nhìn thấy nước, ta vẫn không thể chạm đến
được, nói gì đến chuyện uống. Tương tự, khi tâm tạm
thời được giải thoát khỏi tham, sân, si, ta có thể cảm
nhận được sự thanh tịnh của niết bàn, nhưng không nhất
thiết là ta có phương tiện để đạt đến đó. Đoạn diệt
được lòng tham ái thì cũng giống như tìm được sợi dây
của tâm từ bi. Giải thoát được tâm khỏi sân hận thì
cũng giống như gắn được sợi dây đó vào cái gàu của
tình thương yêu. Sức mạnh trong đôi tay thì tựa như trí
tuệ, sự giải thoát khỏi vô minh. Khi ta có thể kết hợp
ba phẩm chất này lại với nhau, thì ta có phương tiện để
cuối cùng được nếm hạnh phúc toàn vẹn của niết bàn.
Trạng
thái hạnh phúc này không thể diễn tả được bằng lời.
Đặc tính duy nhất của nó là sự thanh tịnh. Nó không sinh,
không được cấu thành, và không có điều kiện. Vì
thế, điều duy nhất ta có thể làm là nói về những gì mà
trạng thái này không có. Ở đó không có lòng tham, sự bám
víu, chấp chặt vào sự vật, con người, hay quá khứ. Ở
đó cũng không có sân, xung đối, thù hằn hay tham luyến. Ở
đó không có sự lầm lạc nhìn mọi sự vật như là thường
hằng, tự tại hoặc là có một linh hồn hay một cái ngã
bên trong.
Những
người còn sống trong ảo tưởng rằng họ đang hưởng thụ
cuộc sống như nó là trong một thế giới khổ đau, khi nghe
sự diễn tả này có thể sẽ nói, “Như vậy giác ngộ đâu
có gì là tốt đẹp. Không chắc gì tôi đã muốn đạt được
trạng thái đó. Ở đó có nhà cửa không? Rồi còn gia đình,
trường học, bảo hiểm y tế, bệnh viện, đường xá, vân
vân?” Những câu hỏi này đã được đặt ra với tôi.
Câu
trả lời phải là không. Những người còn bám víu vào cuộc
sống, vào sự luân hồi vô cùng tận này, sẽ không có tâm
sáng suốt để muốn đạt được trạng thái của sự thanh
tịnh toàn vẹn. Họ không hiểu diệu đế thứ nhất của
Đức Phật, rằng khổ là điều không thể tránh được, hay
diệu đế thứ hai của Ngài, rằng càng ham muốn, thì ta càng
khổ đau. Không có chánh kiến về những điều căn bản này,
thì họ khó mà hiểu được diệu đế thứ ba của Đức Phật
-rằng khổ sẽ chấm dứt khi ta đoạn diệt được tất cả
mọi tham ái, mọi bám víu.
Có
thể sẽ có thắc mắc không biết việc ta muốn đạt được
giác ngộ và thoát khỏi vòng luân hồi vô cùng tận có được
chấp nhận không. Câu trả lời là được, đây là một ước
muốn thiện –được gọi là “ước muốn được không còn
ham muốn.”
Diệu Đế
Thứ Tư:
Con Đường
Đạo
Diệu
đế thứ tư của Đức Phật là con đường đạo dẫn đến
sự chấm dứt khổ. Con đường tám ngành (Bát Chánh Đạo)
mang lại hạnh phúc và an bình cho những ai thực hành chúng.
Sau này chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ từng bước một, nhưng giờ
hãy điểm sơ qua:
• Bước 1: Chánh Kiến trong giáo lý của Đức Phật đòi hỏi chúng ta phải liễu tri các hành động thiện dựa trên nhân quả và Tứ Diệu Đế và xét xem chúng có phù hợp đối với giáo lý của Đức Phật nói chung.
• Bước 2: Chánh Tư Duy hướng ta đến ba tư duy tích cực –sự rộng lượng hay xả, tình thương yêu và lòng bi mẫn.
• Bước 3: Chánh Ngữ dạy chúng ta làm thế nào để nói sự thật và tránh nói lời ác độc, cộc cằn, phù phiếm để giúp ta tiến trên con đường đạo.
• Bước 4: Chánh Nghiệp đưa ra những nguyên tắc giúp ta sống có đạo đức -nhất là tránh giết hại, trộm cắp, tà dâm và các chất gây nghiện.
• Bước 5: Chánh Mạng giải thích tại sao việc ta chọn một công việc hay nghề nghiệp thích đáng là điều quan trọng đối với sự thực hành tâm linh và đối với những câu hỏi về đạo đức trong kinh doanh, thái độ của chúng ta phải thế nào.
• Bước 6: Chánh Tinh Tấn đề ra bốn bước mà ta có thể theo để thúc đẩy công phu tu tập –ngăn ngừa các trạng thái tâm tiêu cực, chế ngự các trạng thái tâm tiêu cực, vun trồng các trạng thái tâm tích cực và duy trì các trạng thái tâm tích cực.
• Bước 7: Chánh Niệm nói đến sự thực hành thiền chánh niệm -nhất là vun trồng chánh niệm nơi thân, thọ, tâm, và pháp.
•
Bước 8: Chánh Định nói đến bốn giai đoạn của thiền
định sâu xa mà chúng ta có thể đạt được trong thiền quán.
Tám bước này (Bát Chánh Đạo) không chỉ là một bảng liệt
kê thú vị về các tư tưởng đã được Đức Phật dạy.
Mà chúng là nguồn hy vọng tốt đẹp nhất của chúng ta để
đạt được giác ngộ. Nếu tám bước này là những điều
mà bạn sẽ đọc lướt qua một cách nhanh chóng rồi để
qua một bên, là bạn đã không nắm được sự quan trọng
của chúng. Không có lời dạy nào trong giáo lý của Đức
Phật sâu sắc hơn và quan trọng hơn. Đúng ra tám bước này
chính là Phật pháp.
Tám
bước này thường được diễn tả như một bánh xe –bánh
xe của trí tuệ, ngược lại với bánh xe của luân hồi sanh
tử không dừng dứt. Trí tuệ sẽ chặn đứng lại vòng xoay
của sanh tử luân hồi. Các nấc trên bánh xe trí tuệ là tám
bước trên con đường đạo của Phật. Trục bánh xe là sự
kết hợp của tâm từ bi và trí tuệ. Ngược lại, những
nấc trên bánh xe của sanh tử luân hồi là bao kiếp sống
mà chúng ta đã phải trải qua và rồi chúng còn sẽ đưa ta
đến các cõi khổ đau. Trục của bánh xe đó là sự
kết hợp của tham, sân, và si.
Cả
hai bánh xe đều luôn chuyển động. Chúng ta đã nhìn thấy
tất cả quanh ta là những vòng bánh xe không dừng dứt của
sanh và tử. Cây cỏ, thú vật, và con người luôn được sinh
ra rồi chết đi. Nhưng sẽ khó nhận ra sự chuyển động của
bánh xe trí tuệ, tuy nó vẫn có mặt. Quanh ta, bao người vẫn
đang tu tập theo con đường đến hạnh phúc của Đức Phật.
Bánh xe này chuyển động vì sự thực hành tâm linh rất mạnh
mẽ, luôn hoạt động và luân chuyển. Dáng hình tròn của
cả hai bánh xe đều là biểu tượng của sự toàn vẹn. Bánh
xe của sanh tử cũng là một quy trình khép kín tuyệt đối.
Đó là một hệ thống toàn hảo để luân chuyển trong khổ
đau. Trong khi dáng hình tròn của bánh xe trí tuệ biểu tượng
rằng Bát Chánh Đạo là đầy đủ, vẹn toàn.
Để
tự giải thoát khỏi khổ đau, bạn cần thực hành mọi khía
cạnh của bánh xe trí tuệ. Chỉ đọc về tám bước của
bánh xe (Bát Chánh Đạo) sẽ không giúp bạn được hạnh phúc.
Nếu bạn cố gắng để giữ một bánh xe đạp đứng thẳng,
nó sẽ ngã xuống. Tuy nhiên nếu bạn giữ cho bánh xe quay bằng
cách đạp xe đi tới, thì bánh xe sẽ đứng thẳng cho đến
khi nào sự chuyển động dừng lại. Để mang đến ích lợi
cho bạn, bánh xe của trí tuệ cũng cần phải được lăn đi
trong sự thực tập hằng ngày.
CHÁNH
NIỆM VỀ CHÁNH KIẾN
Để
bạn biết làm thế nào thực hành bước thứ nhất –Chánh
Kiến về Tứ Diệu Đế- thí dụ, một buổi sáng kia khi ngồi
trên gối thiền bạn cảm thấy đau ở chân. Thay vì chỉ ghi
nhận sự phát sinh và hoại diệt của cảm giác đó, thì bạn
trong trường hợp này lại cảm thấy khổ vì cái đau, và
sự khó chịu của bạn càng làm nó đau thêm. Nếu tâm chánh
niệm của bạn đã thuần thục, thì vấn đề này đã không
xảy ra, nhưng giờ bạn đã sa lầy. Bạn có thể làm được
gì bây giờ?
Bạn
có thể chế ngự được sự phiền não do cái đau mang đến
bằng cách thực hành bát chánh đạo của Đức Phật. Đây
là cơ hội để quán sát tứ diệu đế trong thực hành.
Mặc
dầu tám bước (Bát Chánh Đạo) đã được mô tả theo một
thứ tự đặc biệt, nhưng chúng ta không cần phải thực hành
chúng theo thứ tự đó. Không đơn giản và rõ ràng như thế.
Thí dụ như ta đang nấu ăn trong nhà bếp nơi tất cả các
dụng cụ đều được treo theo kích cỡ và được xếp đặt
gọn gàng theo một thứ tự lô gích nào đó, thì ta cũng không
dùng các dụng cụ này theo thứ tự mà chúng đã được xếp
đặt. Thay vào đó ta sẽ lấy bất cứ cái chảo hay cái nồi
nào mà ta đang cần lúc đó. Cũng thế, khi áp dụng Bát Chánh
Đạo vào cuộc sống hằng ngày đòi hỏi ta phải chọn lựa
và sử dụng bất cứ bước nào mà ta cần.
Do
đó, trước hết ta chánh niệm về cái đau và sự phản kháng
của ta đối với nó. Như thế là ta đã sử dụng chánh niệm,
là bước thứ bảy của Bát Chánh Đạo. Với chánh niệm,
ta bắt đầu nhận thức rằng “Đây là khổ.” Khi nhìn ra
sự thật của khổ, là ta đã nhận ra diệu đế thứ nhất.
Nó trở thành là một thực tại đối với ta và ta bắt đầu
thực hành chánh kiến, là bước đầu tiên của Bát Chánh
Đạo.
Với
sự chú tâm chánh niệm, ta sẽ dễ dàng nhận thấy rằng càng
phản kháng cái đau, thì ta càng cảm thấy tệ hại hơn. Vì
thế ta cố gắng để chế ngự, buông xả sự phản kháng.
Hành động đó liên quan đến chánh tinh tấn, là bước thứ
sáu. Ta buông xả sự phản kháng bằng cách thư giãn và thiết
lập một thái độ thân thiện hơn. Ta có thể, thí dụ, suy
luận rằng cái đau trong chân cũng đáng được chấp nhận,
thương yêu như bất cứ những cảm giác nào khác của thân.
Bằng cách đó, ta tu tập một khía cạnh của chánh tư duy,
là bước thứ hai.
Sau
đó ta có thể quán sát rằng nỗi khổ phát sinh không chỉ
vì sự phản kháng mà còn vì ta mong muốn được cảm thấy
dễ chịu hơn. Thí dụ, ta có thể nghĩ, “Giá mà tôi có thể
ngồi một cách yên tĩnh, không bị đau đớn!” Thấy được
sự liên hệ giữa lòng ham muốn và sự khổ đau sẽ đưa
chúng ta thẳng đến trí tuệ trong diệu đế thứ hai, sự
thật rằng chính lòng tham ái đem lại khổ. Giờ thì chánh
kiến của ta đã được phát triển sâu xa hơn.
Khi
ngồi với ý thức về diệu đế thứ hai, ta trở nên rất
rõ ràng về sự liên hệ giữa lòng tham ái và khổ, do đó
chánh niệm cũng được phát triển sâu hơn. Vì thấy quá rõ
lòng tham ái đưa đến khổ đau như thế nào, nên ta phát khởi
quyết tâm phải làm điều gì đó đối với lòng tham ái. Phát khởi quyết tâm, là ta đã lại thực hành chánh tinh tấn,
nhưng lần này, là để buông bỏ tâm tham ái, bám víu
vào những cảm giác dễ chịu. Tư tưởng buông xả, còn được
biết đến như là xả ly, là một khía cạnh khác của chánh
tư duy.
Có
thể lúc đầu chúng ta đã phản ứng lại cái đau với cảm
giác thất vọng, bực tức. Nếu sự tự trách hay các
ác ý khác nhắm đến bản thân đã phát sinh, thì giờ ta phải
thực hành chánh tinh tấn để buông bỏ chúng. Làm được
thế, là ta một lần nữa thực hành chánh tư duy. Hãy
nhớ rằng nếu ta cố gắng quá sức, thì ta tạo ra nhiều
đau đớn và căng thẳng hơn. Tuy nhiên, với chánh niệm, ta
sẽ nhìn thấy được vấn đề đó. Rồi chánh tư duy một
lần nữa lại trở nên hữu dụng, lần này là để giải
nhiệt cho tâm với tư duy về tình thương yêu dành cho bản
thân.
Những
sự thành công như thế trong việc vun trồng chánh kiến, chánh
tư duy, chánh tinh tấn, và chánh niệm sẽ giúp tâm lắng đọng.
Tâm trở nên định tĩnh hơn; đây là một biểu hiện của
bước thứ tám trên con đường đạo: Chánh Định. Khi
đạt được định sâu lắng, thì sự đau đớn tinh thần
cũng như thể xác sẽ qua đi. Khi sự đau đớn đã tan biến
ta sẽ cảm thấy đầy an bình, tĩnh lặng và hạnh phúc. Các
trạng thái này, ngược lại, sẽ đưa ta vào tầng định cao
sâu hơn.
Định
sâu lắng hơn sẽ giúp tâm chánh niệm được củng cố và
ta tiếp tục quán sát các chứng nghiệm của mình. Ta thấy
rằng cái đau biến mất vì ta buông xả lòng tham muốn đối
với dục lạc. Sau đó chánh kiến sẽ tăng trưởng khi ý nghĩa
và hiệu lực của diệu đế thứ ba trở nên tách bạch: khi
chấm dứt tham ái thì khổ được đoạn diệt.
Có
thể nhận thấy rằng trong thí dụ vừa rồi chúng ta đã không
nói đến khía cạnh “đạo đức” của Bát Chánh Đạo:
đó là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, và Chánh Mạng (bước thứ
ba, tư, và năm). Nhưng chúng cũng có mặt, vì chúng đóng vai
trò quan trọng trong một cuộc sống tốt đẹp. Sống thiếu
đạo đức sẽ khiến tâm không an, khiến cho việc hành thiền
trở nên khó khăn ngay cả trong những hoàn cảnh thuận tiện.
Ta cần có một nền tảng đạo đức vững chãi trước khi
có thể duy trì được định và giữ được quyết tâm mạnh
mẽ khi đối diện với những đau đớn của thân tâm. Do đó
khi đã thực hành không sai lệch các bước trên con đường
đạo (Bát Chánh Đạo) của Đức Phật, ta sẽ tìm thấy trong
đó phương cách để buông xả khổ đau. Khi làm được thế,
ta sẽ chánh kiến được diệu đế cuối cùng trong Tứ Diệu
Đế, sự thật rằng phương cách để chấm dứt khổ là đi
theo con đường Bát Chánh Đạo. Đến đây chúng ta đã
điểm qua tất cả bốn khía cạnh căn bản của Chánh Kiến.
Khi
đã tự mình thấy được Tứ Diệu Đế diễn biến như thế
nào trong trường hợp này, chúng ta cũng đoán được chúng
sẽ vận hành ra sao trong cuộc đời nói chung. Do đó bánh
xe trí tuệ sẽ được tiếp tục quay vòng.
TÓM
LƯỢC VỀ CHÁNH KIẾN
Những
điều sau đây nhằm giúp ta đạt được hạnh phúc thông qua
Chánh Kiến:
• Chánh Kiến giúp ta hành động trong sự hiểu biết về nhân quả và Tứ Diệu Đế.
• Tuân theo luật nhân quả, hành động một cách khôn khéo sẽ đem đến những kết quả tốt đẹp và hành động bất thiện sẽ đưa đến những kết quả xấu.
• Bất cứ hành động nào phát xuất từ tâm tham, sân, hay si đều đưa đến đau khổ, do đó là các hành động bất thiện hay sai trái.
• Bất cứ hành động nào không bị ảnh hưởng của tâm tham, sân, hay si, sẽ đem đến hạnh phúc, do đó là hành động thiện hay đạo đức.
• Tứ Diệu Đế giải thích về khổ, nguồn gốc của khổ, sự chấm dứt của khổ và Bát Chánh Đạo, con đường đưa đến sự chấm dứt của khổ.
• Chấp nhận sự thật về khổ giúp ta nhận ra được chân hạnh phúc.
• Sinh, già, bệnh, chết; phải rời xa những gì ta yêu và phải ở cạnh điều ta ghét; muốn cái ta không được và được cái ta không muốn -tất cả đều là khổ.
• Khổ phát sinh khi ta không chấp nhận vô thường, bản chất khổ, và tính chất vô ngã của vạn pháp.
• Ái dục là nguồn gốc sâu xa của khổ. Ta càng tham ái bao nhiêu, thì càng khổ bấy nhiêu.
• Ta phải chịu trách nhiệm cho lòng tham ái và những hành động có chủ đích của mình.
• Khi biết chấp nhận trách nhiệm đối với hậu quả của các hành động có chủ tâm, thì ta sẽ có thể chuyển đổi hành động của mình.
• Khổ có thể được đoạn trừ.
• Tám bước trên con đường đưa đến hạnh phúc của Đức Phật (Bát Chánh Đạo) chỉ bày cho ta các phương cách để đoạn diệt khổ và đạt được hạnh phúc toàn vẹn.
Chánh Niệm có thể giúp chúng ta liễu tri Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo, con đường đưa đến hạnh phúc.