BÁT CHÁNH ĐẠO
Con Đường Đến Hạnh Phúc
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana
Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
BƯỚC 4
CHÁNH NGHIỆP
Có người cần một
bảng liệt kê các giới luật để đảm bảo rằng mình hành động một cách đạo đức,
chân thật. Người khác thì cần giới luật để cảm thấy chắc chắn rằng họ đã đạt
được mục đích tâm linh, ở cõi trời hay được giác ngộ. Đức Phật cũng đã chỉ bày
cho ta những cách hành xử để tránh khỏi đau khổ, nhưng hành động đạo đức chân
chính không chỉ nằm trong các bảng điều lệ giới luật nào. Đúng hơn, đó là các
quy luật liên quan đến hành động của ta, để cho ta biết chúng gây ra đau khổ
cho bản thân và tha nhân như thế nào -sự lựa chọn hành động đạo đức của mỗi
người sẽ ảnh hưởng đến tất cả như thế nào.
NĂM GIỚI
Giới luật Phật
giáo bắt đầu với năm quy luật mà ta cần tuân giữ cẩn thận nếu muốn đạt được sự
tiến bộ tâm linh. Đó là:
- Không sát
sanh
- Không trộm cướp
- Không nói dối
- Không tà dâm
- Không dùng rượu
hay các chất say khác
Các đệ tử của Đức
Phật phải phát lời nguyện để giữ các giới luật này, gọi là năm giới. Tuy nhiên,
các quy luật đạo đức này không phải do Đức Phật chế đặt ra; mà chúng là những
đạo đức cơ bản, có mặt ở khắp mọi nơi và không có giới hạn thời gian.
Bốn trong số năm
giới luật này đã được đề cập đến trong Bát Chánh Đạo. Chánh ngữ bao gồm việc
không nói dối. Chánh nghiệp được xem như là không giết hại, trộm cắp, và
tà dâm. Giới cuối cùng trong năm giới: không sử dụng các chất gây nghiện, cũng
nằm trong chánh nghiệp. Vì một người say sưa không thể kiềm giữ không phạm vào
tà ngữ hay hành động sai trái.
Ở giai đoạn đầu của
việc phát triển đạo đức, chúng ta cần đến những giới luật này, cũng như một đứa
trẻ cần được cha mẹ nhắc nhở với những lời răn dạy như là “Đừng sờ vào lửa
nóng.” Khi lớn lên, đứa trẻ nhận ra rằng lời cha mẹ dạy là để tránh cho mình
khỏi bị nguy hiểm. Tương tự, khi chúng ta đã hoàn thiện sự hiểu biết về hành
động đạo đức, chánh nghiệp sẽ trở thành tự động. Chúng ta không thể nào muốn
phạm vào năm giới luật, mà ta cũng không cần phải dựa vào chúng mới đi đúng
đường.
ĐẠO ĐỨC
TRONG HÀNH ĐỘNG
Theo
truyền thống chúng ta nói rằng Chánh Nghiệp bao gồm việc không giết hại, không
trộm cắp, và không tà dâm. Mặc dầu chúng ta dùng các thuật ngữ tương tự trong
ngũ giới và trong định nghĩa về Chánh Nghiệp trong Bát Chánh Đạo, nhưng ý nghĩa
của chúng hơi khác nhau. Trong ngũ giới, ý nghĩa của các giới này rất đơn giản
và rõ ràng: chỉ là đừng làm ba việc này. Giết hại, trộm cắp và tà dâm là ba
hành động tồi tệ nhất mà ta có thể phạm phải, và nếu phạm các giới này, ta sẽ
không thể có được sự bình an. Vì thế, chúng ta lập thệ nguyện mạnh mẽ, vững
vàng và tuân giữ chúng một cách triệt để.
Tuy nhiên, khi Đức
Phật nói đến Chánh Nghiệp trong Bát Chánh Đạo, trong ý nghĩa của việc tránh
giết hại, trộm cắp, và tà dâm, Ngài đã đưa ra những thí dụ đơn giản nhất mà
người ta có thể vi phạm các giới này. Vì thế sự kiềm chế này phải được hiểu
không chỉ một cách hạn hẹp, trong ý nghĩa là giữ giới, mà còn là những phương
hướng mở rộng cho các hành động đạo đức cao hơn. Thí dụ, trong một bài thuyết
pháp Đức Phật đã khuyến khích mọi người phải hành động đầy lòng từ bi đối với
tất cả mọi chúng sanh, bằng những lời dạy sau:
Ai cũng sợ
gươm đao,
Ai cũng sợ sự
chết.
Suy ta ra lòng
người,
Chớ giết, chớ
bảo giết. (2)
(Dh 129)
Đức Phật giải
thích rằng bất cứ hành động nào gây tổn hại cho người khác –như là đập phá nhà
cửa, gây hỏa hoạn, hăm doạ bằng vũ khí– là sai, ngay nếu như không có ai thiệt mạng.
Có lần tôi được nghe về một thanh niên không thích những người bạn học
cùng chỗ trọ của mình. Để trả thù, anh ta khủng bố họ bằng cách bí mật phá hoại
đồ dùng cá nhân của họ như là vứt quần áo họ vào cầu tiêu hay phá hỏng máy vi
tính của họ! Sự tị hiềm nhỏ mọn và những kiểu đùa dai làm tổn thương người cũng
là những hành động thiếu đạo đức.
Ngoài ra còn có
các hành động đạo đức ở mức độ vi tế hơn. Thí dụ giới không sát sanh sẽ đạt đến
ý nghĩa cao đẹp nhất khi ta phát triển được một thái độ hoàn toàn vô hại và
lòng luôn mong ước mọi điều tốt lành cho những chúng sinh khác.
Chúng ta thực hành
Chánh Nghiệp không chỉ vì ta muốn tránh phạm các giới hay vì ta sợ ai đó sẽ
trừng phạt nếu ta phạm lỗi. Ta tránh những hành động tàn nhẫn, ác độc vì ta
thấy được hậu quả của những hành động như thế -chúng sẽ mang sự bất hạnh khôn
lường đến cho ta và cho mọi người quanh ta, ở hiện tại cũng như tương lai.
Chúng ta thực hành Chánh Nghiệp vì muốn cuộc sống của mình có ích và hòa hợp,
không phải để phá hoại hay chống đối, và vì ta muốn tâm được thanh tịnh, an
lạc, không bị phiền não vì hối hận, ăn năn.
Khi nói đến việc
tuân giữ các giới luật, tâm có rất nhiều trò. Có người tự nhủ rằng giới luật
không dành cho người trẻ tuổi. Họ nói, “Hiện tại tôi có quyền được hưởng
thụ và làm bất cứ điều gì tôi muốn. Khi lớn tuổi hơn tôi sẽ tu sửa lại.” Tiếc thay,
biết giữ gìn quy luật đạo đức lúc cuối đời thì cũng giống như trúng số khi bạn
sắp từ giã cõi đời. Nếu chờ đợi quá lâu, ta sẽ không thể hưởng thụ được lợi ích
mà một đời sống đạo đức có thể mang đến –không bị nghiện ngập, có những mối
liên hệ lành mạnh, một lương tâm trong sáng, và một tâm bình lặng. Tốt nhất là
được hưởng những thành quả tốt đẹp của một đời sống đạo đức khi bạn còn trẻ, có
sức khỏe và mạnh mẽ. Lúc tuổi già, ta không còn cần các giới luật đạo đức để
kiềm chế ta khỏi hành động sai trái!
Một ngụy biện khác
mà chúng ta thường sử dụng là tự nhủ, “Các quy luật đạo đức này có ích lợi gì
cho tôi? Cuộc đời tôi như thế này cũng tốt đẹp rồi.” Nếu đó là thái độ của bạn,
thì tốt nhất là bạn cần phải xét lại tư duy đó một cách kỹ lưỡng. Nếu cuộc đời
bạn tốt đẹp, thì tại sao bạn phải nói dối, ăn cắp, rượu chè, hay giết hại? Việc
phạm giới nhanh chóng trở thành một thói quen khó bỏ. Hơn thế nữa, những hành
động này không thể tránh khỏi đưa đến những hậu quả tiêu cực. Không có chuyện
chạy trốn khỏi luật nhân quả. Phạm vào các nguyên tắc đạo đức, thì bạn có thể
bị mất mát tài sản, suy kiệt sức khoẻ, giảm thiểu lòng thương yêu của người
thân, và nhiều thứ khác nữa mà bạn hằng coi trọng. Hơn thế nữa, bạn sẽ phải đối
mặt với lo âu, mặc cảm tội lỗi và ngay cả việc đau khổ hơn. Hãy nhớ rằng chúng
ta gìn giữ các nguyên tắc đạo đức là để cho mình được hạnh phúc, không phải đau
khổ.
Ngay cả những hành
động thiếu đạo đức có vẻ nhỏ mọn, tầm thường cũng có thể gây ảnh hưởng tai hại.
Tôi được nghe có một người đã phải mất quyền đấu thầu trong một công ty cổ phần
hàng triệu đồng -chỉ vì đã giết một con bọ. Anh ta là một nhà kinh doanh rất
tài giỏi, am tường. Anh đã có hẹn để gặp đối tác có thể hùn vốn để thảo luận
về việc đó. Khi họ đang chuyện trò, một con bọ rớt xuống đậu trên miệng ly nước
giải khát của nhà kinh doanh. Anh ta dùng chiếc muỗng đang quậy để nhấn
con bọ xuống đáy ly. Khi con bọ bò trở lên miệng ly, anh ta lại đẩy nó trở
xuống. Trong khi đang thảo luận công việc đáng hàng triệu đô la mà anh ta vẫn
đùa giỡn với con bọ, cứ đẩy nó xuống cho đến khi nó kiệt sức chết dưới đáy
ly.
Người đối tác của
anh sau này cho tôi biết rằng, khi nhìn thấy những việc như vậy, anh ta tự
nghĩ, “Người này quá ác độc. Có thể anh ta sẽ làm bất cứ điều ác độc gì để được
có tiền. Tôi không muốn hợp tác kinh doanh với người như thế.” Vì thế người đó
rút lui khỏi cổ phần.
Bạn có thể tự hỏi
tại sao các điều luật trong Chánh Nghiệp được diễn tả bằng những từ ngữ tiêu
cực –không giết, không trộm cắp, vân vân. Lý do rất đơn giản. Chúng ta
không thể tìm thấy niềm vui của các hành động thiện cho đến khi ta buông bỏ
được cái sai trái. Chúng ta có khuynh hướng hành động với một tâm đầy tham ái,
dẫn đến đủ loại khổ đau. Trước tiên chúng ta phải biết cưỡng lại khuynh hướng
bản năng này. Sau đó ta mới có thể thấy được là ta sẽ cảm thấy dễ chịu, bình
tĩnh, tự tại, và hạnh phúc biết bao khi ta hành động một cách có đạo đức. Không
thể nấu một bữa ăn ngon trong một cái nồi đầy bụi, hay tạo dựng được một khu
vườn đẹp trên mảnh đất đầy cỏ dại. Kiềm chế không hành động bất thiện, tức là chúng
ta đã tạo ra môi trường thích hợp cho thiện pháp được nở hoa. Thí dụ, tránh
không giết hại hay sân hận tạo ra môi trường thích hợp cho tình thương yêu và
lòng bi mẫn được phát khởi khi giao tiếp với người. Tương tự, tránh không trộm
cắp –không lấy của không cho, dầu đó là của cải vật chất hay công sức, tư
tưởng, sáng kiến của người khác- sẽ khiến điều ngược lại được phát sinh –đó là
tâm xả.
Hành động đạo đức
tách sự chú tâm của ta khỏi những lợi ích cá nhân, vị kỷ để hướng đến những ích
lợi cho người và cho ta. Khi đắm chìm trong dục vọng của bản thân, chúng ta bị
lòng tham, sân, si, và những tâm lý ích kỷ khác chế ngự. Do đó, ta sẽ
không thể tự kiềm chế hay có đủ tuệ giác để hành động đúng đắn. Nhưng khi chúng
ta kiềm chế được các pháp bất thiện, thì những màn sương u ám trong tâm ta sẽ
tan đi một ít và ta bắt đầu nhận thấy rằng chính tình thương yêu, lòng bi mẫn
và độ lượng thật sự mới mang đến cho ta hạnh phúc. Tâm sáng suốt này giúp chúng
ta hành động đạo đức và tiến bước trên con đường theo dấu chân Phật.
Không Giết Hại
Khuynh hướng muốn
làm tổn hại, gây đau đớn cho chúng sanh khác thường xuất phát từ lòng sân hận
hay sợ hãi. Khi chúng ta cố ý giết một sinh vật, dầu là nhỏ nhoi như là sâu bọ,
là ta đã làm giảm thiểu lòng tôn trọng đối với tất cả mọi sự sống –trong đó có
bản thân chúng ta. Chánh niệm giúp ta nhận biết được các hành động sai trái của
bản thân và chịu trách nhiệm về chúng. Khi quán sát các trạng thái tâm của mình,
chúng ta nhận thấy rằng sân hận và sợ hãi dẫn ta luân chuyển trong vòng xoay
của bạo lực và sự nhẫn tâm, khiến ta có những hành động hại người và hủy diệt
tâm thanh tịnh của bản thân ta. Tránh không giết hại giúp tâm ta được bình an
và giải thoát khỏi sân hận. Tuệ giác này giúp chúng ta biết kiềm chế, không
hành động sai trái và sẵn lòng đón nhận những hành động xuất phát từ lòng bi
mẫn và tâm độ lượng.
Một đệ tử của tôi
bảo rằng cô thuờng cảm thấy sợ và phản ứng mạnh mẽ đối với một số sinh vật nhỏ
giống như là chuột, chí, hay đỉa. Vì những cảm giác này, cô sẵn sàng giết
chúng. Khi sự tu tập chánh niệm giúp cô trở nên hiền hòa hơn, cô nguyện không
giết những sinh vật này nữa. Kết quả là các cảm giác sợ hãi, xa lánh chúng cũng
giảm thiểu trong lòng cô. Gần đây, cô còn thu hết can đảm để cầm một con gián
trong tay, mang thả ra ngoài cửa chứ không giết nó.
Khi chúng ta kiềm
chế không giết hại, lòng tôn trọng cuộc sống được tăng trưởng và ta bắt đầu
hành động đầy lòng bi mẫn đối với tất cả mọi chúng sanh. Cũng người đệ tử này
kể với tôi về việc đi thăm một người bạn đang sống ở một trung tâm thiền nào
đó. Khi đến, cô nhận thấy trước cửa nhà các nhân viên trong trung tâm, có
treo các bẫy sâu bọ. Có cả chục con ong vàng đã bị rơi vào bẫy bởi mùi thơm
ngọt ngào của dĩa nước táo. Một khi đã chui vào cái lỗ nhỏ của bẫy, chúng không
thể ra. Cuối cùng, khi đã mệt mỏi vì phải bay trong một không gian nhỏ bé,
chúng rơi xuống đáy dĩa nước táo, rồi chết đuối trong đó. Cô hỏi bạn mình
về cái bẫy. Anh ta đồng ý rằng một công cụ như thế thật không nên có ở một trung
tâm thiền, nhưng anh nói rằng mọi người đã đặt những cái bẫy này ở đây lâu rồi
và anh không thể làm gì được hơn.
Mặc dầu cô gái cố
gắng không để ý đến tiếng những con ong kêu trong bẫy, cô không thể nào tách
hình ảnh chúng đang đau khổ ra khỏi tâm trí. Cô cảm thấy mình phải làm điều
gì đó để giúp một vài con có cơ hội trốn thoát. Cô lấy con dao, khoét một lỗ
nhỏ ở phía trên bẫy, và cắm dao ở đó. Một vài con ong vàng đã bò lên theo cán
dao và bay thoát ra ngoài. Sau đó cô khoét cái lỗ bự hơn, và thêm một số
con nữa cũng chạy thoát. Cuối cùng, cô nhận ra rằng cô không thể nào chịu đựng
được cho dù chỉ một con phải chết trong bẫy. Mặc dầu lo lắng về hành động của
mình, nhưng cuối cùng cô đã đem cả mấy cái bẫy đến một khu vườn bên cạnh, tháo
chúng ra, giải thoát tất cả những con còn sống. Khi làm như vậy, cô thầm nhủ,
“Nguyện cho tôi được giải thoát khỏi các tâm và hành động bất thiện giống như
những con vật này được giải thoát khỏi các bẫy rập.”
Cô gái nói rằng từ
đó trở đi, cô không còn sợ các con ong nữa. Mùa xuân năm rồi, một tổ ong vàng
đã xuất hiện dưới cổng vào của Hội Bhavana. Nhiều người đi qua cửa đó bị chúng
chích, và khu vực đó bị rào lại. Tuy nhiên, cô đệ tử vẫn tiếp tục đi qua lối
đó, mà không làm hại sinh vật nào. “Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu còn bị con ong
vàng nào chích nữa,” cô nói. “Nhưng nếu có đi nữa, tôi vẫn lo chúng đã bị
sợ hãi hay có thể đã bị thương khi đốt tôi.”
Như bạn đã thấy từ
kinh nghiệm của người đệ tử này, kiềm chế không giết hại tạo ra một môi trường
thích hợp để các hành động bi mẫn có thể tăng trưởng trong cuộc sống. Đó là
điều thật tuyệt vời và là một phương cách hữu hiệu giúp ta tiến bộ trên con
đường tu tập. Nhưng chúng ta cũng không nên quá cứng rắn trong việc ủng
hộ cho sự không giết hại! Chánh niệm đòi hỏi ta phải tự quyết định về hành động
đạo đức của mình, không phải để khăng khăng buộc tất cả mọi người khác đều phải
theo gương của ta.
Thí dụ vấn
đề ăn mặn. Dầu bản thân tôi không ăn mặn, tôi không bắt mọi người phải ăn chay.
Vì nhìn một cách toàn diện hơn, tôi thấy ngay chính những người ăn chay cũng
góp tay một cách gián tiếp vào việc giết hại. Thí dụ ở một làng có khoảng một
ngàn người ăn chay, và ở làng kế bên, có những người nông dân trồng rau cải,
trái cây, và lúa mạch để nuôi một ngàn dân làng kia. Khi họ đào xới đất hay giữ
cho côn trùng không phá hoại mùa màng, thì họ cũng phải giết nhiều sinh
vật nhỏ bé. Rồi nhiều sinh vật và côn trùng khác nữa lại bị giết bởi các loại
máy móc trong mùa thu hoạch. Những người ăn chay ở làng kế bên cảm thấy rất
thoải mái. Mặc dầu nhiều sinh vật đã bị giết hại, họ không bị lương tâm cắn
rứt, vì họ không cố ý muốn giết hại. Bạn có thể thấy từ thí dụ này rằng việc ăn
rau củ và việc giết hại côn trùng trong quá trình trồng trọt rau củ là hai vấn
đề khác nhau. Tương tự, lý luận đó cũng có thể áp dụng cho việc ăn mặn. Vì ăn thịt và giết hại chúng sanh để có thịt là hai điều hoàn toàn khác nhau.
Ngay chính Đức Phật đôi khi cũng ăn thịt khi được cúng dường. Những người chỉ
ăn thịt cũng không có ý muốn giết hại.
Vì mục đích giữ
giới không giết hại, Đức Phật đã định nghĩa việc giết hại rất rõ ràng rằng đó
là hành động cố ý muốn cướp đoạt mạng sống. Trong các giới luật dành cho tăng
ni, Đức Phật nói rõ ràng hơn về những điều kiện cần có trong một hành động giết
hại:
-Phải có một
sinh vật.
-Ta biết rằng có
sinh vật đó.
-Ta có ý muốn giết
hại.
-Ta dự tính phương
cách giết hại.
-Ta thực hiện hành
vi giết hại với phương cách đã dự tính.
Người ăn mặn không
phạm vào bất cứ trường hợp nào kể trên. Họ biết những gì họ ăn là thịt và thịt
đó là của thú vật. Tuy nhiên họ không có ý muốn giết thú vật đó, mà họ cũng
không tham gia vào việc giết thú vật.
Nếu không có sẵn
thịt, ta không nên đi tìm kiếm, săn bắn hay giết mỗ cầm thú để ăn mà nên ăn cái
gì khác. Nhưng ta cũng không nên đặt nặng vấn đề tránh tất cả mọi thứ góp phần
vào việc giết hại một cách gián tiếp. Trong cuộc sống hiện đại, có rất nhiều
thứ có thể góp phần một cách gián tiếp vào việc giết hại. Thí dụ, khi lái
xe hay đi qua vườn cỏ, ta cũng có thể giết hại côn trùng. Một số loại thuốc ta
dùng để trị bệnh đã được thí nghiệm trên thú vật -bằng cách giết chúng, hủy
hoại chúng, hay làm cho chúng bệnh. Sử dụng các loại thuốc này không phải là
hành động giết hại. Đức Phật đã dạy rõ ràng rằng chính là ý muốn, là chủ tâm
làm điều gì đó mới là đáng kể.
Còn nói về sự phát
triển tâm linh, thì không có gì khác biệt giữa một người ăn chay và ăn mặn. Khi
một người ăn chay nỗi lòng tham, lòng nghi, họ cũng hành động giống như người ăn
thịt vậy. Nếu bạn muốn trở thành một người ăn trường chay, thì bằng mọi cách
hãy thực hiện đi. Những bữa ăn chay lạt rất tốt cho sức khoẻ. Cá nhân tôi là
người ăn chay vì lòng bi mẫn đối với thú vật. Tuy nhiên, đừng cảm thấy bó buộc
phải tránh ăn thịt mới có thể đạt được hạnh phúc tuyệt vời nhất.
Nhiều vị cư sĩ hỏi
tôi phải làm thế nào đối với những côn trùng trong nhà hay ngoài vườn của
họ. Họ muốn làm người Phật tử tốt, không giết hại, nhưng bông của họ sẽ
bị tàn úa hay nhà họ trở nên dơ bẩn vì họ không dám đụng đến các côn trùng. Tôi
bảo họ rằng việc giết sâu bọ côn trùng, dầu là vì mục đích tốt, cũng vẫn là
giết hại. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi sự giết hại đều có cùng một nghiệp
quả. Thông thường việc giết một côn trùng không cản trở sự tiến bộ tâm
linh của ta giống như khi ta giết một con vật, như là con chó. Tương tự, giết một
con chó sẽ không khiến tâm bất an như giết một con người. Không có hành động
giết hại nào đem đến nhiều tai họa cho bản thân hơn là giết cha mẹ mình hay
giết một bậc giác ngộ. Loại giết hại này sẽ cản trở kẻ sát nhân không thể đạt
được giác ngộ trong kiếp này và sẽ đưa đến một sự tái sinh tồi tệ nhất. So với
sự giết hại này, giết côn trùng không phải là một vấn đề lớn lao. Nên hiểu rằng
có nhiều loại nghiệp quả, chúng ta tự chọn lựa hành động và chấp nhận hậu quả
của chúng.
Không Lấy Của Người
Trộm cắp là một
biểu hiện của lòng tham hay ganh tỵ. Lấy của không thuộc về mình là một thói
quen xấu khó bỏ. Nhiều người không có chút kiềm chế nào trong lãnh vực này đến nỗi
ngay khi họ đi dự khóa tu thiền để cố gắng đạt được chút hạnh phúc và thanh
tịnh, họ vẫn duy trì thói quen ăn cắp. Ở Hội Bhavana, chúng tôi biết có nhiều
trường hợp người ta lấy cắp tọa cụ. Tôi không biết có ai đã đạt được giác ngộ
khi thực hành thiền trên một chiếc tọa cụ được ăn cắp! Thư viện của chúng tôi
cũng gặp phải những vấn đề tương tự. Vì Hội Bhavana nằm trong một khu rừng,
không có đường đến các tiệm sách lớn dễ dàng, nên chúng tôi lưu giữ các bộ sưu
tập kinh điển của Hội. Qua thời gian, một số sách đã biến mất. Thật là buồn
cười khi người ta đến trung tâm này để thiền và học hỏi về những điều Phật dạy,
vậy mà họ không thể thấy rằng lấy những thứ không phải của mình không thể nào
giúp tâm họ đạt được an bình.
Thực tập Chánh
nghiệp trong việc không lấy cắp có nghĩa là nỗ lực để sống chân thật và tỏ lòng
tôn trọng tài sản của người khác. Điều đó có nghĩa là nhắc cho cô thu ngân biết
rằng cô đã quên tính tiền một món đồ mà bạn đã mua hay cô đã thối lại cho bạn
quá nhiều tiền. Điều đó có nghĩa là bằng mọi cách phải trả lại cho người những gì
không phải của bạn, mà không mong đợi sự khen thưởng nào cho hành động của
mình.
Dĩ nhiên, đôi khi
sự chân thật cũng đưa đến những phần thưởng vật chất. Tôi nhớ về một câu chuyện
được đưa lên báo về hai đứa bé nhặt được một túi tiền trong nhà vệ sinh của
tiệm Sears. Chúng mang túi về nhà và khám phá ra trong đó có hơn ba mươi sáu
ngàn đô! Với sự hỗ trợ của cha mẹ chúng, những đứa trẻ này quyết định đem tiền
giao lại cho cảnh sát.
Người ta khám phá
ra là số tiền đó thuộc về một khách hàng trên đường đến ngân hàng đã ghé qua
Sears, và bỏ quên túi tiền trong nhà vệ sinh. Hẳn là vị khách đó đã
đau khổ xiết bao khi bị mất tiền và sung sướng dường nào khi có người trả lại
tiền. Lòng tin vào chân lý và vào bản tánh thiện của con người hẳn phải phát
khởi trong lòng anh. Anh đã bày tỏ lòng biết ơn bằng cách tặng cho hai đứa trẻ
một phần thưởng xứng đáng, và cộng đồng cũng khen ngợi chúng có lòng chân thật.
Xâm chiếm tài sản
hay tiền bạc của người là ăn cắp, điều đó ai cũng biết. Nhưng ta thường
chứng kiến những hiện tượng ăn cắp vi tế hơn. Thí dụ việc tự coi ý kiến của
người là của mình cũng là ăn cắp. Cũng như lấy những vật nhỏ mọn ở sở làm, như
là viết, giấy, hay đĩa vi tính, và đem về nhà để dùng cho cá nhân mình. Chúng
ta thường ngụy biện cho những hành động như thế bằng cách tự nhủ, “Tôi cũng có
thể nghĩ ra điều đó,” hay “Công ty phải trang bị cho tôi những thứ này. Họ đã
trả lương ít quá.” Gian dối trong việc khai thuế, viết ngân phiếu không tiền bảo
chứng, hối lộ, hay tham gia vào các công việc kinh doanh nhằm mục đích lừa dối
cũng là ăn cắp. Ngay như lấy đồ trong siêu thị ăn khi bạn đói cũng bị coi là ăn
cắp. Hãy nhớ, không bao giờ nên phục vụ cho thân bằng chi phí của tâm.
Mục đích của chúng
ta trong việc tuân giữ các giới luật đạo đức trong Chánh nghiệp là để cuộc sống
của ta được hạnh phúc. Nếu ta phạm giới, đau khổ chắc chắn sẽ theo sau, trong
kiếp sống này hay trong tương lai. Muốn được hạnh phúc, tâm phải bình an và
lương tâm trong sạch. Đừng nghĩ rằng bạn kiềm chế không ăn cắp là để làm vừa
lòng thế giới. Bạn làm thế là vì sự tự tại của bản thân, ngay ở hiện tại và
trong tương lai.
Khi đã vượt lên
mức độ thô thiển của việc đấu tranh chống lại bất cứ hình thức nào của việc lấy
của không cho, chúng ta mới có thể xem xét lại sự quan tâm của ta đối với nhu
cầu của người khác và trở nên bớt chấp vào vật chất hơn. Dùng giới luật không
trộm cắp như là một người chỉ đường, chúng ta sẽ trở nên bớt ganh tỵ với những sở
hữu hay các sự may mắn của người khác. Thay vào đó chúng ta khám phá ra được
niềm vui của sự thông cảm và tâm hoan hỷ cho hạnh phúc của người khác.
Không Tà Dâm
Giới luật này của
Đức Phật thường được diễn giải như là sự kiềm chế không “phạm vào hành động
tình dục sai trái”, nhưng thực ra giới này được áp dụng cho nhiều hành động hơn
là chỉ trong phạm vi tình dục. Đức Phật thực sự muốn khuyên chúng ta phải kiềm
chế không “sử dụng các giác quan bừa bãi” -tất cả các giác quan. Tà dâm là một
hình thức sai phạm đặc biệt tai hại của sự lạm dụng đó.
Vì giới luật này,
người ta thường nghĩ rằng khi nói đến “lạm dụng các giác quan,” Đức Phật chỉ
muốn nói đến việc kiềm chế các hành động sai trái trong tình dục. Các
hành động này bao gồm hiếp dâm, buộc người khác phải quan hệ tình dục mà không
có sự đồng ý của họ. Ngoài ra, giới này cũng ám chỉ việc lạm dụng tình
dục với trẻ em, thú vật, vợ/chồng hay người tình của kẻ khác hoặc người không
thể tự bảo vệ. Nếu một người bạn tình, dầu không cưới nhau, nhưng đã chung sống
mà phản bội người kia, thì cũng bị coi là hành động tà dâm. Quan hệ tình dục
với người đã trưởng thành, thích hợp và có sự đồng ý thì không bị coi là sai
phạm.
Ngoài những điều
đã nêu ra, người ta thường gặp nhiều vấn đề vì lòng ham muốn dục vọng. Oái oăm
là dục vọng không bao giờ có thể hoàn toàn được thỏa mãn. Dầu phải trải qua bao
rủi may, bao phiền não, khổ đau khi cố gắng thỏa mãn dục vọng của mình, nhưng
ước vọng muốn thỏa mãn ái dục không bao giờ mất. Một số người hướng đến thiền vì
sự khổ đau dằn vặt do các ham muốn tình dục của họ mang đến. Tiếc thay là
thường ngay trong lúc họ nỗ lực để đạt được thiền định và tâm bình an, lòng ham
muốn nhục dục vẫn quấy phá họ.
Giải pháp duy nhất
cho vấn đề này là bắt đầu bằng việc kiềm chế các hoạt động tình dục của bạn.
Nếu bạn không thể kiềm chế chút nào, thì con đường đến hạnh phúc sẽ mãi mãi xa
vời. Một số thiền sinh tinh tấn đã có thể tiến những bước dài trong việc từ bỏ
các tánh xấu như là rượu chè hay nói dối, vậy mà họ không nhận ra được tại sao họ
phải kiềm chế các hoạt động tình dục của họ. Họ nói, “Tôi không thấy gì là sai
khi chỉ muốn vui vẻ một chút.” Theo sự phân loại từ trước tới nay về
những điều không nên phạm trong phạm vi hoạt động tình dục thì hình như vẫn còn
thiếu sót. Nhiều người biện luận rằng giới luật không nói gì đến việc
liên hệ với nhiều người tình miễn là họ độc thân, phù hợp; giới luật cũng không
chống đối lại việc tìm kiếm những khóai lạc tầm thường. Nhưng những khóai lạc
tầm thường làm hạ nhân phẩm của bạn, làm hèn mọn con người bạn. Sự quan hệ tình
dục bừa bãi mang lại tai hại cho bạn và cho cả người khác.
Vậy thì mục đích
của loại vui vẻ này là gì? Để mang đến cho bạn khóai lạc? Để thỏa mãn ham muốn
của bạn? Tuy nhiên, chúng ta đã nói từ trước tới giờ rằng dục vọng –lòng ham
muốn– chính là gốc rễ của khổ đau. Diệu đế thứ hai của Đức Phật dạy rằng tất cả
mọi khổ đau đều xuất phát từ lòng tham ái. Hoạt động tình dục bừa bãi là một
trong những cách dễ nhất để tâm ta rơi vào trong vòng xoáy của tham và sân. Dục
lạc thì chóng qua, nhưng cái giá phải trả -sự nhục nhã, ê chề, lo lắng, ghen
tuông, ăn năn, sợ hãi, cô đơn, và mong muốn được dục lạc nhiều hơn– thì không
thể kể xiết đến nỗi ta phải đuổi theo nó không ngừng nghĩ.
Vấn đề là dục vọng
không thể được thỏa mãn bằng phương tiện vật chất. Làm như thế cũng giống như
gãi vào chỗ ngứa bằng những ngón tay tẩm thuốc ngứa. Mặc dầu khi gãi có thể
mang đến cho ta một cảm giác giải thoát ngắn ngủi, nhưng hành động đó lại làm
chất độc lan rộng thêm, khiến cho sự ngứa ngái càng trở nên tệ hại hơn. Cách
chữa trị cho căn bệnh đó đòi hỏi bạn phải biết kiềm chế, không làm những gì chỉ
để tăng thêm phiền não cho bạn sau này.
Đức Phật đã dùng
một ảnh dụ mạnh mẽ để diễn tả những sai phạm mà người ta thường mắc phải trong
vấn đề tình dục. Vào thời Đức Phật, những người bệnh phong thường ngồi quanh
đống lửa, đốt vết thương của họ. Bệnh phong khiến họ bị ngứa ngái không thể
chịu nổi. Bằng cách dí ngọn lửa vào vết thương đem đến cho họ cảm giác giải thoát
tạm thời. Nhưng ngọn lửa không làm họ hoàn toàn hết ngứa hay chữa lành bệnh họ.
Thay vào đó là họ tự làm phỏng mình. Một khi cảm giác dễ chịu tạm thời qua đi, vết
thương sẽ sưng lên và bưng mủ vì phỏng. Những kẻ khốn khổ này cuối cùng phải
chịu nhiều khổ sở và ngứa ngái hơn trước đó nữa. Vì thế, những người bệnh phong
này lại ra đống lửa và đốt mình nữa.
Đức Phật bảo rằng
chúng ta cũng như thế khi tìm cách thỏa mãn dục vọng của mình. Khi ta tìm đến
đống lửa của thú vui thể xác, ta có thể tìm được cảm giác giải thoát tạm thời
khỏi những đau khổ và thất vọng của dục vọng. Nhưng đắm chìm trong đó không
chữa lành được ta, trái lại ta chỉ làm phỏng mình. Như thế thì lòng ham
muốn, sự ngứa ngái còn tăng lên đến mức độ nào nữa?
Đức Phật giảng
tiếp, nếu có một vị y sư đến, mang theo thuốc chữa cho người bị bệnh phong.
Người bệnh xức thuốc và hoàn toàn được chữa khỏi. Giờ thì anh ta nghĩ gì về
đống lửa? Không có quyền lực gì trên trái đất này có thể khiến anh muốn tự đốt
mình nữa. Những người bạn cũ có thể gọi anh đến bên đống lửa. Nhưng anh nhớ lại
những gì đã xảy ra -sự điên cuồng của lòng ham muốn và sự giải thoát ngắn ngủi
của ngọn lửa. Không có gì có thể khiến anh quay trở lại đó. Anh cảm thấy lòng
đầy trắc ẩn đối với những người bạn cũ và đối với những đau khổ của bản thân
anh trước đó. (M 75)
Đức Phật thường
nói về mình như là một bậc y sư và về giáo lý của Ngài, Pháp, như là thuốc
chữa.
Đối với
tất cả các thuốc trên thế gian,
Đa dạng
và đa loại,
Nhưng không
có thứ nào giống thuốc của Pháp.
Do đó,
này hỡi các tỳ kheo, hãy uống thuốc này.
Đã uống
thuốc Pháp này,
Ta sẽ
không còn già, và chết.
Đã tu tập
và đã thấy được chân lý,
Ta sẽ dập
tắt, giải thoát khỏi ái dục.
(Miln 335
[5] [Hòa Thượng S. Dhammika)
Nghe như thế, có
thể bạn tự hỏi “Vậy thì tôi phải chọn giữa người tình và con đường đạo sao?” Ý
nghĩ sai lầm này đã khiến nhiều người lo ngại. Hoạt động tình dục giữa hai
người trưởng thành, có trách nhiệm thì không cản trở gì đến việc tu hành của
họ. Thật ra, mối liên hệ hỗ trợ này có thể là một tài sản quý báu để tiến bước theo
tám bước đến hạnh phúc (Bát Chánh Đạo) của Đức Phật.
Giới không phạm tà
dâm có thể được giữ bằng những phương cách vi tế hơn, vượt xa sự kiềm chế giới
luật một cách máy móc. Ở mức độ cao nhất, chúng ta coi tất cả mọi phụ nữ như là
chị, em gái của mình và tất cả mọi người nam như là em, anh trai, những người
lớn tuổi như cha mẹ mình, và những người nhỏ tuổi như con cái mình. Được thế
thì lòng ham muốn sẽ biến mất. Vì đơn giản là ta không còn nhìn người khác phái
như một đối tượng của ham muốn tình dục. Tất cả những thái độ trước kia đều biến
mất, ngay cả những ham muốn vi tế cũng tan vào trong lòng bi mẫn bao la và sự
quan tâm cho an toàn của người khác.
Hơn thế nữa, để
hoàn thiện Chánh nghiệp trong Bát Chánh Đạo, Đức Phật khuyên chúng ta không nên
lạm dụng bất cứ giác quan nào của mình. Bên cạnh việc phạm giới tà dâm, thì điều
đó còn có nghĩa gì? Đó là khi ta thỏa mãn lòng ham muốn bằng cách kích thích
bất cứ giác quan nào đó đến độ nó rã rời, đó là lạm dụng các giác quan.
Lãnh vực nào chúng
ta còn bỏ qua, chưa xét đến trong các hành động của mình, những hoạt động nào
mà qua đó ta thúc đẩy thân và tâm mình vượt quá mức hợp lý vì mục đích khóai
lạc hay trốn tránh, lãng quên? Hãy tự hỏi mình: “Tôi có cho phép mình xem
truyền hình hằng giờ liền không? Hay bỏ thì giờ làm những công việc giấy tờ
không cần thiết mãi đến tận khuya? Ăn nhiều hơn những gì cần thiết để duy trì
cuộc sống? Có đến các tụ điểm mà âm nhạc quá ồn ào đến nỗi dường như tai ta
muốn vỡ tung ra? Có tìm cách thỏa mãn dục lạc đến độ thân thể mệt mỏi, rã
rời, không còn sức để lao động ngày hôm sau? Có sử dụng internet để đem lại lợi
ích cho cuộc sống và cộng đồng hay tôi chỉ lo giải trí cho đến lúc mắt mờ đi và
tâm đông cứng lại?”
Các hoạt động này
không thích hợp cho thân, không thích hợp cho con đường tâm linh. Nhưng buông
bỏ chúng thì ta sẽ cảm thấy thế nào? Thì thay vào đó, lòng tự trọng sẽ được tăng
trưởng. Ngã chấp xuất phát từ các hoạt động này có thể được phá bỏ, nhường chỗ
cho một trái tim rộng lượng, hướng về tâm linh, không còn là nô lệ cho tiếng gọi
của dục vọng.
Không Sử Dụng Chất Gây
Nghiện
Giới luật cuối
cùng trong năm giới dạy ta phải tránh dùng rượu, ma tuý, hay những chất gây
nghiện khác và giới luật này cũng được hàm chứa trong Chánh Nghiệp. Khi đưa ra
giới luật này, Đức Phật dùng các thuật ngữ có điều kiện. Ngài không khuyên các
cư sĩ phải tránh tất cả mọi chất làm say, mà chỉ nói những thứ có thể khiến ta
“cuồng dại, vô tâm và bất cần.” Nói cách khác, việc sử dụng chừng mực các
loại thuốc giảm đau có chất gây nghiện (narcotic) được bác sĩ cho toa không vi
phạm giới luật này. Việc thỉnh thỏang dùng ít rượu nhẹ, cũng không thành
vấn đề. Tóm lại chúng ta phải sử dụng trí thông minh của mình.
Dầu được phép uống
ít rượu, ta cũng không nên làm. Vì ly này thường dẫn đến ly kia. Có
người chỉ sau một ly, cũng bị say, và không thể kiềm chế được mình. Do
đó, lúc tốt nhất để thực hành việc tự kiềm chế là trước ly rượu đầu tiên, không
phải sau đó. Người thì qua thời gian mới trở nên nghiện ngập, mỗi lần
uống tửu lượng của họ lại tăng thêm một ít, nên họ không biết rằng việc uống
rượu thường xuyên đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Hơn thế nữa, việc
trữ rượu trong nhà cũng dễ khiến người ta mượn rượu để giải sầu hay giảm căng
thẳng. Chúng ta có thể sống hoàn toàn khỏe mạnh mà không cần đến rượu,
nên tốt hơn hết là đừng tạo cơ hội để rượu có thể hủy hoại cuộc đời ta.
Với thời
gian tôi đã được nghe nhiều câu chuyện thương tâm do rượu mang đến cho con
người như thế nào. Thí dụ một thiền sinh ở Hội Bhavana kể rằng, nhiều năm trước
cô không thích thú gì việc uống rượu và chỉ uống một ít khi bị mời ép. Ở các
bữa tiệc có rượu, cô không bao giờ uống hết một chai bia. Cô chỉ cầm chai bia
suốt buổi tối để hòa đồng với những người uống rượu. Sau khi ra trường, cô dọn
đến một cộng đồng khác. Những người bạn mới ở nơi này thường xuyên uống rượu và
cô nhiễm thói quen thỉnh thỏang uống rượu cho vui, một thói quen thành hình một
cách chậm chạp. Cô kể rằng một đêm kia, khi có chuyện phiền muộn, cô đã uống
một loại rượu mạnh hết ly này đến ly khác. Khi bạn bè tỏ vẻ lo ngại, ngăn cản thì
cô nguyền rủa họ, bảo họ hãy lo chuyện của họ. Bỗng nhiên, một cảm giác rất lạ
xuyên qua cơ thể. Sau này cô mới biết đó là một sự biến đổi hóa chất. Từ lúc đó
trở đi, cô trở thành nghiện rượu. Suốt hai năm, mỗi ngày cô đều uống rượu và
mỗi tuần say xỉn ít nhất vài lần. Cá tính của cô thay đổi theo hướng tiêu cực,
khiến cô rất đau khổ. Cuối cùng, cô tìm đến các trung tâm cai nghiện rượu
để nhờ giúp đỡ và giờ cô đã bỏ được rượu nhiều năm rồi.
Có nhiều lý do
khiến người ta tìm đến các chất gây nghiện. Các bạn trẻ thì muốn làm
người lớn hơn hay tỏ vẻ trí thức; người nhút nhát, hoặc thiếu bình tĩnh, muốn
thư giãn hay được người chung quanh chấp nhận hơn; những kẻ có vấn đề thì muốn
tìm quên lãng. Tất cả mọi động lực đều phát khởi từ khổ -từ việc muốn
thoát khỏi thực tại của những gì đang xảy ra trong giờ phút hiện tại.
Tuy nhiên, khi
quán tưởng về vấn đề này, ta thấy rằng việc chạy trốn không bao giờ có thể giải
quyết bất cứ vấn đề gì hay làm giảm bớt bất cứ khổ đau nào. Nghiện rượu hay
nghiện các chất ma túy chỉ khiến cho ta càng thêm đau khổ. Nó khiến ta đánh mất
lòng tự trọng, căn bản đạo đức của mình, sống thiếu kiềm chế. Ta có thể dễ dàng
nói dối, phạm vào tà dâm, trộm cắp hay những điều tệ hơn thế nữa. Ta còn có thể
hủy hoại sức khoẻ, tài sản, hôn nhân, gia đình, công việc, kinh doanh của mình.
Ta có thể đánh mất sự kính nể của người khác và lòng tự trong của mình. Cuối
cùng ta sẽ bị bỏ rơi, ngập ngụa trong khổ đau để tự hỏi tại sao những việc ghê
gớm này có thể xảy đến cho ta. Tóm lại, thuốc chữa tốt nhất cho việc nghiện
ngập là trước hết hãy đừng sử dụng các chất gây nghiện!
Để có thể thực
hành Bát Chánh Đạo tốt hơn, chúng ta có thể xét rộng hơn ý nghĩa của giới luật
thứ năm này ở mức độ cao hơn trong việc kiềm chế không sử dụng các chất gây
nghiện. Chúng ta tự sử dụng thuốc trong những trường hợp nào khác và tại sao?
Sử dụng khía cạnh này của Chánh Nghiệp như là một hướng dẫn tổng quát, hãy chất
vấn động lực của bạn, tự hỏi có phải bạn đang cố gắng để không phải chánh niệm.
Bạn trốn tránh vấn đề của mình như thế nào? Bằng cách đọc báo? Hay tham
gia vào các cuộc nói chuyện phù phiếm? Chánh niệm có thể giúp ta xác định được
những thứ ta bày ra để tránh phải luôn đối mặt với thực tại.
Những Giới Luật Cao Hơn Dành
Cho Cư Sĩ
Hằng ngày chúng ta cần tuân giữ năm giới. Tuy nhiên nếu muốn tiến nhanh hơn trên đường tu, ta có thể tự nguyện tuân theo một số điều luật trong một thời gian nào đó. Các giới luật này bao gồm năm giới căn bản và một vài giới khắt khe hơn. Một số thiền sinh nguyện tuân giữ các giới này vào những dịp đặc biệt, như là khi họ dự một khóa tu thiền hay khi họ đến sống ở các trung tâm thiền, các tu viện.
Có tám giới luật:
- Không giết
hại
- Không trộm cắp
- Không tà dâm
- Không nói dối
- Không dùng các
chất gây nghiện
- Không ăn sau ngọ
- Không nhảy múa,
hát ca, nghe nhạc hay xem hát, và không dùng nữ trang, mỹ phẩm hay hương thơm
- Không dùng
giường nệm hay chỗ ngồi cao và rộng –(những thứ xa xỉ)
Thỉnh thỏang
tuân giữ tám giới này có thể giúp cho sự hành thiền của ta được tốt hơn. Khi lương
tâm trong sáng, ta không có lý do gì để ăn năn hối hận, thì tâm định của ta sẽ phát
triển mạnh mẽ hơn.
Vào thời xa xưa,
người dân ở các quốc gia theo Phật giáo tuân giữ tám giới luật cả ngày, một
tháng bốn lần. Những ngày ấy, họ đến chùa hay thiền viện ở trọn cả ngày, hành
thiền, đọc tụng kinh sách, nghe thuyết pháp và tham vấn giáo lý. Đôi khi họ
hành hương từ chùa hay thánh địa này đến nơi khác. Bất cứ ở đâu khi tụ họp lại,
họ đều hành thiền, nghe pháp do các vị cư sĩ hay tu sĩ thông thái thuyết giảng.
Hôm sau, họ lại trở về với những hoạt động thường nhật.
Ngày nay rất ít
người thực hành nghi lễ tôn giáo (Bát quan trai) này. Phần đông chúng ta khi
không phải kiếm sống hay chăm sóc con cái, thì làm công việc nhà, coi truyền
hình, dự tiệc tùng, xem hát, đi ăn hay đến các quán bar. Khi đã chán tất cả các
hoạt động này thì ta đi du lịch. Thông thường là chúng ta phải làm việc rất cực
nhọc để có tiền đi du lịch, nhưng nó lại bao gồm một cuộc chạy đuổi khác theo các
hoạt động hầu mang đến khóai lạc. Khi trở về nhà, đôi khi ta cảm thấy cần
một kỳ nghỉ khác để lấy lại sức từ kỳ nghỉ trước! Rồi ta lại phải tiếp tục làm
việc vì nếu không có tiền thì sẽ không có kỳ nghỉ nào nữa, mà nếu không làm việc cật lực thì cũng không có tiền. Có lẽ bạn cũng đã nhận ra cái vòng lẩn
quẩn của khổ đau này.
Tuy nhiên, việc tu
Bát quan trai để tuân giữ tám giới luật này giúp ta có một chọn lựa khác. Việc
tu Bát quan trai trong một ngày, một cuối tuần, hay lâu hơn có thể mang đến cho
chúng ta một sự nghỉ ngơi thật sự khỏi những công việc thường nhật và khiến ta
được tươi mát hơn, đầu óc trong sáng hơn, không mệt mỏi, cáu kỉnh. Ta không cần
phải đến chùa mới trì được tám giới luật này, mà có thể thực hành ngay tại nhà.
Khi nhà có trẻ nít, cơ hội để có được những giờ phút yên tĩnh và tự do có thể
rất hiếm. Vì thế mà để có thể sử dụng những thời gian quý báu này vào việc giúp
ta vun trồng được nội tĩnh, là điều rất quan trọng. Ích lợi ngay trước mắt của
việc tu tập này là cảm giác bình an, tự tại, thư giãn, cải thiện sức khoẻ, cũng
như giúp ta có một cái nhìn đúng đắn hơn về cái chết. Sự kỷ luật không thường
xuyên này có thể xoa dịu, mang lại thoải mái cho cả thân và tâm.
Thí dụ, những
người thường ăn ba hay bốn bữa một ngày có thể thấy rằng việc nhịn ăn một ngày
một tuần là một việc làm tốt. Rồi họ có thể bắt đầu một ngày chỉ ăn hai bữa và
nhịn sau đó. Hai bữa ăn này phải là một bữa điểm tâm thật đầy đủ và một bữa ăn
trưa nhẹ. Họ nên bỏ qua bữa tối. Vì nếu không có nhiều hoạt động sau một bữa ăn
nặng vào buổi tối, tiến trình tiêu hóa rất chậm, và đồ ăn sẽ ở trong bao tử cho
đến sáng hôm sau. Khi ta không ăn gì buổi tối, ta sẽ cảm thấy khá đói sáng hôm
sau. Vậy thì ta có thể ăn một bữa điểm tâm thật đầy đủ. Có thể hầu hết các
ngày, do nhu cầu của gia đình và công việc không cho phép ta ăn bữa điểm tâm
đầy đủ và ăn nhẹ (hay không ăn gì) vào buổi tối. Vì thế nếu chúng ta có một
ngày đặc biệt để tu theo Bát quan trai, thì nó sẽ giúp ta có cơ hội để thử
phương cách ăn uống này.
Thời gian mà ta
tiết kiệm được vào buổi tối khi ta không phải chuẩn bị bữa ăn, ăn uống, rồi dọn
dẹp từ một bữa ăn nặng nề có thể dùng để làm nhiều việc ích lợi khác, như là
hành thiền hay đọc kinh sách Phật. Dầu việc thực hành này lúc đầu không phải
dễ, nhưng nó là một thói quen tuyệt vời cần được huân tập. Hãy nhớ rằng, không
có gì dễ lúc ban đầu. Sau khi đã quen không ăn nhiều, bạn có thể cố gắng không
ăn trọn một ngày. Đừng ăn bất cứ thực phẩm gì, nhưng uống thật nhiều nước và
nước trái cây. Hãy dành ngày đó cho riêng mình, đọc sách và hành thiền. Một
ngày như thế là một kỳ nghỉ ngắn tuyệt vời cho thân và tâm.
Thọ Bát quan trai
một cách chính thức giúp ta giữ tâm chánh niệm. Khi ta bắt đầu làm điều gì phạm
một trong các giới luật đó, tâm ta sẽ nói, “Chờ một chút, hãy nhớ …!” và ta sẽ
nhớ lại, “Ồ, tôi không được …” Giới luật cũng giống như ngọn roi mà người đánh
xe dùng để nhẹ nhàng nhắc nhở con ngựa chạy đúng hướng, hay là tiếng kèn xe để
nhắc nhở bác tài không sai lệch đường.
Người cư sĩ cũng
có thể nguyện thọ suốt đời một số các giới luật gọi là bát giới. Các giới này
bao gồm năm giới căn bản cộng với ba giới phụ thêm về Chánh Ngữ: không nói lời
ác độc, không nói lời cộc cằn, và không nói xấu. Năm 1998, khi làm lễ kỷ niệm
mười năm ngày thành lập Hội Bhavana, các thành viên trong Hội được mời tham dự
trong buổi lễ thọ nhận bát giới suốt đời. Việc này do một trong những
thành viên ban chấp hành đề nghị, vì chính bà cũng muốn thọ bát giới. Những người tham gia được yêu cầu dự một khóa tu hai ngày trước buổi lễ để chú tâm
vào ý nghĩa của việc thọ nguyện. Lời mời này được đón nhận rất nhiệt tình. Ba
mươi sáu người đã tham dự khóa tu, nguyện suốt đời nương tựa Phật và thọ nhận tám
giới luật suốt đời. Từ đó hằng năm chúng tôi đều thực hiện nghi lễ này.
Chuẩn bị tinh thần
để thọ nguyện bát giới đối với một số thiền sinh không phải dễ. Một số tỏ
vẻ lo sợ, số khác lại cảm thấy khó tuân giữ. Đúng là thật khó khi ta phải
phát lời thệ nguyện! Buổi lễ thọ giới chính ra rất đơn giản. Người thọ giới đọc
lại thọ nguyện trong kinh, chung cả nhóm. Rồi mỗi người nhận một pháp danh mới
theo ngôn ngữ cổ truyền Pali. Nghi lễ đơn giản này để lại ấn tượng tốt đẹp
trong đời của người thọ giới, ảnh hưởng nhiều đến cách họ nói năng. Sau khi thọ
nguyện, khi tuôn ra những lời cộc cằn, cay độc, họ sẽ ngay lập tức nhận ra lỗi
lầm của mình. Giới luật như một lời nhắc nhở của lương tâm, khiến họ dừng
lại. Cứ thế, dần dần họ sẽ không còn sử dụng tà ngữ nữa. Sự chuyển
hóa đơn giản này giúp họ có thể thấy giới luật vận hành như thế nào để tạo ra
hạnh phúc.
Nhiều người sau
khi thọ bát giới đã viết thư cảm ơn tôi. Họ nói rằng đó là một bước ngoặt
trong đời họ. Nhưng tại sao họ phải cám ơn tôi? Tôi đâu có yêu cầu họ phát lời
thọ nguyện. Chính họ tự nguyện. Họ phát lời thọ nguyện không phải cho tôi, cho người
thân của họ, hay cho ai khác, mà cũng không phải vì luật pháp đòi hỏi hay vì ích
lợi toàn cầu. Họ tự nguyện thọ trì các giới luật này cho bản thân, cho cuộc
sống riêng của họ, cho hạnh phúc ở hiện tại và trong tương lai của họ.
Bạn không nên sợ
phải phát nguyện thực hành theo Chánh Nghiệp hay tu Bát quan trai, hay thọ trì
bát giới suốt đời. Trái lại, bạn phải vui mừng rằng mình đã quyết định hành
động để sống tốt đẹp hơn. Những người nghiện rượu, ma túy, cờ bạc, hay có một
số những hành vi bất thiện khác rất khó quyết định dừng lại. Họ trì hoãn và
luôn có nhiều lý do để thoái thác. Nhưng một khi đã quyết định chuyển đổi và
tuân giữ giới luật được một thời gian, họ nhận thấy tâm trí họ trở nên trong
sáng hơn, ăn ngủ tốt hơn, dành dụm được tiền bạc, và những mối liên hệ với gia
đình, với xã hội phát triển tốt đẹp hơn. Vì thế, họ đầy lòng mang ơn và
tự hào về bản thân, vì đã chọn đi đúng hướng.
Tương tự, chúng ta
có thể cũng đã gặp khó khăn khi phát nguyện từ bỏ các bất thiện pháp. Nhưng một khi ta đã thọ nguyện và kiên trì tu tập, thực hành, ta sẽ được hạnh phúc,
tự tại, và hoan hỷ rằng mình đã có một quyết định mang đến sự chuyển hóa tốt
đẹp cho cuộc đời mình.
CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH NGHIỆP
Đức Phật dạy
rằng, “Tất cả mọi lời nói, hành động, và ý nghĩ thiện đều xuất phát từ tâm
chánh niệm.” Nói cách khác, Chánh Nghiệp phát xuất một cách tự nhiên từ tâm
chánh niệm.
Hãy quán sát kỹ
hơn tại sao là như thế. Mọi hành động có chủ tâm của thân, khẩu và ý, đều có
tác động mạnh mẽ đối với chúng ta. Khi gây thương tổn cho ai hay hành động sai
trái, ta thường trải qua những bức xúc vật lý (nơi thân), đưa đến trạng thái
tâm bối rối, đau khổ. Chánh niệm giúp chúng ta thấy được những ảnh hưởng tai
hại này một cách rõ ràng. Ta thấy rằng một hành động bất thiện dẫn đến cảm giác
ăn năn, cảm giác này lại dẫn đến lo âu, phiền muộn khiến tâm không được thanh
thản. Khi tâm bứt rứt, chúng ta không còn khả năng định tĩnh. Hành động càng tiêu
cực, thì tâm càng bấn loạn, lo âu. Vòng ác nghiệp đã thành hình, qua đó
các hành vi bất thiện này lại ảnh hưởng, sai khiến ta phạm thêm các tội lỗi
khác nữa.
Ngược lại cũng
thế. Với tâm chánh niệm, chúng ta thấy rằng khi ta hành động với tình thương
yêu, tâm ta trở nên nhẹ nhàng, an tĩnh. Tâm thanh tịnh sẽ giúp ta thêm hoan hỷ
và giúp ta chú tâm định tĩnh sâu lắng hơn. Biết được điều này, ta sẽ cảm thấy
hăng hái theo đuổi các thiện pháp. Thân và tâm ta trở nên mạnh khỏe, trong sáng
hơn. Kết quả tích cực này giúp ta tiến bước trên con đường đạo.
Tôi còn muốn nói
rộng hơn, là chánh niệm trong việc trì giới -dầu đó là năm, tám hay nhiều giới
hơn nữa– cũng đều khiến ta thêm vẻ trang nghiêm, đẹp đẽ! Khi ta nói hay hành động
với tâm chánh niệm về các giới luật, ta sẽ cảm thấy tự tại, bình an. Và khi tâm
không vướng bận, vẻ mặt bạn sẽ sáng láng, vui tươi. Khi nghĩ về những việc
thiện đã làm, ta sẽ cảm thấy rất hoan hỷ. Tâm an lạc này tỏa sáng trong mắt và
trên vẻ mặt của bạn. Người ta sẽ cảm thấy dễ gần gũi với những người như thế.
Khi ta chánh niệm
về Chánh Nghiệp, tâm không vướng bận cũng giúp ta chú tâm vào mỗi giây phút qua
đi, nhưng không phải trong tâm trạng buồn nản, thụ động. Ta dồn hết mọi khả năng
và trí lực vào nhiệm vụ vừa ý thức được những gì đang diễn ra trong tâm và vừa
giao tiếp khéo léo với thế giới quanh ta. Bằng cách đó chúng ta phát triển được
sự tĩnh giác về các hành động của mình.
Tâm chánh niệm như
thế càng trở nên thiết yếu hơn khi sức chịu đựng của chúng ta bị thử
thách. Khi không bị ai thách thức, quấy rầy thì cũng dễ giữ gìn giới luật
và hành động một cách hòa nhã. Nhưng khi có ai đó nói điều gì làm tổn
thương hay chọc giận bạn, thì tâm bạn có thể bị xáo trộn ngay trong giây phút
đó. Tuy nhiên nếu có chánh niệm, tâm sẽ xuất hiện đúng lúc để nói, “Hãy
dừng lại trong giây lát để tâm bình tĩnh trở lại. Tốt hơn hết không nên nói hay
làm điều gì khiến ta ân hận.”
Nếu ta giữ được ý
thức chánh niệm trong mọi hoạt động, thì khi bị khiêu khích, ta cũng sẽ nhớ để
giữ bình tĩnh. Thí dụ, khi đang đau khổ vì mất người thân hay một tài sản quí
giá, thì chỉ một kích động nhỏ cũng có thể khiến ta trở nên giận dữ. Lúc đó, ta
phải cẩn thận gấp bội khi giao tiếp với người, giống như người không có giày đi
nhẹ nhàng, cẩn trọng tránh miểng vỡ. Khi ta bệnh hoạn, mệt mỏi, đói khát, cô
đơn, đau khổ, bực bội, cũng quan trọng như thế. Những lúc ấy, giữ được chánh
niệm trong từng giây phút giúp ta nhớ đến trạng thái yếu đuối, dễ phản ứng hiện
tại để tránh những hành động có thể khiến ta hối hận.
Một trường hợp
khác khi bạn phải hết sức chánh niệm là khi bạn cảm thấy mình đang ở trong một
môi trường mà những thói quen trong quá khứ có thể lôi cuốn bạn vào việc phạm giới
luật đạo đức. Một người đã từng ăn cắp dễ dàng phải lập tức trở nên chánh niệm
khi thấy cái bóp của ai đó nằm trong tầm tay. Một người từng nghiện rượu phải
lập tức chánh niệm trước những ly bia miễn phí được trao tận tay. Một người đàn
ông đã có gia đình từng phải đấu tranh với dục vọng, bị một phụ nữ quyến rũ
bằng cách trao cho anh tấm danh thiếp, anh ta phải tự nhủ, “Nếu tôi cầm lấy số
điện thoại này, nó sẽ khiến tôi muốn phạm tội. Tâm tôi sẽ không còn được bình
an. Tôi yêu vợ con và không muốn làm tổn hại gia đình. Tốt hơn hết là tôi không
nhận hay vứt nó đi ngay lập tức.”
Trước khi ta đạt
được giác ngộ và tâm đã được trui rèn kỹ lưỡng, ta sẽ còn có thể phạm nhiều
điều bất thiện khác nữa. Trước khi làm điều gì mà ta biết là sai, ta nên dừng
lại và quán tưởng một cách đầy chánh niệm về việc hành động này có thể gây tai
hại cho ta như thế nào. Thí dụ, nếu ta cảm thấy bị cám dỗ muốn ăn cắp tiền của chủ,
ta cần phải quán sát về hậu quả của hành động ăn cắp: ta sẽ phải sống trong sự
sợ hãi bị bắt. Nếu bị bắt gặp, chắc chắn rằng ta sẽ mất việc, mất danh dự và
ngay cả sự tự do. Ngay nếu như ta không bị luật pháp trừng trị, thì lương tâm
ta cũng sẽ trừng trị ta ngay lập tức. Ngay chính ý nghĩ muốn thực hiện một hành
động như thế cũng khiến tâm không được an, thì tâm ta sẽ còn bị xáo trộn biết
bao nếu ta thực hiện hành động đó? Khi một ý nghĩ bất thiện vẫn còn chỉ là một
tư tưởng thoáng qua, ta còn có thể sống với nó. Nhưng một khi đã thành ra hành
động, chắc chắn ta sẽ chẳng bao giờ được sống trong bình an.
Ta cũng phải cân
nhắc hạnh phúc ngắn ngủi mà một hành vi bất thiện có thể đem đến, so với sự đau
khổ dài lâu mà nó gây ra. Thí dụ bạn có cảm giác muốn đánh ai đó. Ý nghĩ này có
thể xuất hiện vì bạn tin rằng bạn sẽ được hả dạ sau đó: “Tôi đã trả được thù,
tên này lần sau sẽ không dám làm vậy nữa!” Nhưng bạn không thể đoán được
kết quả một cách chính xác. Người kia có thể cũng trở nên giận dữ và đánh trả
lại bạn mạnh hơn. Anh ta cũng có thể đem lòng oán hận và âm thầm dự định tấn công
bạn. Một phản ứng không khôn ngoan có thể dẫn đến những cuộc tranh cãi lâu dài
và đắng cay.
Tôi biết một
người ở Tích Lan có hiềm khích lâu đời với hàng xóm. Để trả thù họ, anh ta xây
một căn chòi cạnh bên giếng nước của nhà hàng xóm. Người hàng xóm than phiền, yêu
cầu anh dỡ bỏ căn chòi, nhưng anh ta từ chối. Sau đó, những người trong nhà
hàng xóm đều ngã bệnh. Việc tranh chấp giữa hai gia đình trở nên nghiêm trọng
cho đến khi một người phạm tội sát nhân. Pháp luật điều tra và người đàn ông
kia cuối cùng phải vào tù. Cả hai gia đình đều đau khổ. Nhưng họ sẽ còn tiếp
tục thù hằn nhau qua nhiều thế hệ nữa! Sự tranh cãi giữa hàng xóm ở đâu cũng
có. Có hàng tỷ những cuộc tranh cãi như vậy. Nếu có những sự tranh cãi như thế
xảy ra cho ta, ta phải ngưng ngay lập tức và cố gắng làm dịu tình hình. Những
cuộc tranh cãi không kiềm chế sẽ làm tổn hại tất cả mọi người liên quan.
Chánh nghiệp không
phải do Đức Phật chế ra. Mà sự thật luôn là các hành vi bất thiện sẽ mang
đến khổ đau và gây ra hận thù. Như Đức Phật đã diễn tả ý tưởng này như
sau:
Hận thù không thể xóa bỏ hận thù.
Chỉ
có tình thương mới xóa được hận thù.
Đó
là luật thường hằng.
(Dh 5)
Đức Phật không nói luật đó do Người chế. Nó không chỉ áp dụng cho người Phật tử mà cho tất cả mọi người. Với tâm giác ngộ, Đức Phật có thể thấy rõ ràng các hậu quả xấu ác là do các hành vi sai trái gây ra. Ngài đã dạy,
Nếu hành
động hay nói với tâm uế nhiễm,
đau khổ sẽ theo
sau ta,
như bánh xe
theo dấu chân con bò.
Nếu hành
động hay nói với tâm trong sáng,
hạnh phúc sẽ
theo ta
như bóng theo
hình.
(Dh1-2)
Chánh Nghiệp
không chỉ giúp tâm ta được thanh tịnh mà nó cũng ảnh hưởng tích cực đến mọi
người quanh ta. Có lần tôi được nghe một câu chuyện về một vị tăng đã thể hiện cho
người khác thấy sự chánh niệm về chánh nghiệp có thể giúp người khác như thế
nào. Ngôi chùa nơi vị tăng ấy sống có một cây mít đang ra trái. Mít rất ích lợi
cho cuộc sống ở tu viện. Mỗi trái mít lớn, với những hạt to đầy chất protein và
những múi mít dầy có thể dùng để nấu ra nhiều món. Những gia đình nghèo khó
không đủ khả năng mua thực phẩm, có thể sống nhờ vào cây mít. Mặc dù mít không
phải là loại trái cây có giá, nhưng việc hái trộm mít trong những khu vực nghèo
khó đôi khi khiến kẻ trộm phải mất mạng.
Một đêm kia vị sư
nhận biết có kẻ trộm đang hái mít trong chùa. Kẻ trộm đang ở tít trên cành cây
cao, và thả từng trái xuống bằng một sợi dây thừng để nó không rơi xuống đất
gây ra tiếng động, và gây sự chú ý. Kẻ trộm có cách thắt sợi dây quanh trái mít
sao cho khi nó vừa chạm đất, thì sợi dây giãn ra. Sau đó, kẻ trộm sẽ kéo sợi
dây lên để buộc trái kế tiếp. Vị sư ra đứng im lặng dưới gốc cây mít. Khi mỗi
trái mít chạm mặt đất, ông giúp tháo dây ra.
Cuối cùng kẻ hái
mít trộm cũng leo xuống đất. Anh ta gần té xỉu khi thấy một vị sư vui vẻ đứng
chờ. Vị sư nói với anh một cách dịu dàng, không giống như là một nạn nhân của
kẻ trộm, mà giống như một bậc cha mẹ lo lắng, hỏi han ân cần, “Con đã hái đủ
mít chưa? Con có cần thêm không?” Không cần phải làm ồn ào la lối, khiến cho kẻ
trộm có thể bị những người khác trong chùa gây khó khăn. Thái độ ôn tồn và rộng
lượng của vị sư khiến kẻ trộm quá xấu hổ đến nỗi anh ta lủi đi nhanh
chóng và không bao giờ còn trở lại để trộm cắp trong chùa nữa.
Bạn sẽ làm gì nếu
bạn phạm một trong những giới luật đạo đức của chánh nghiệp? Câu trả lời rất
đơn giản: Hãy thực tập chánh niệm. Trước hết, hãy ý thức ta đã làm gì. Sau đó,
nếu có thể thì sửa đổi. Cuối cùng, quyết chí giữ giới về chánh nghiệp trong
tương lai. Nếu bạn đã phạm giới nào, thì phải lập lại lời thọ nguyện. Sau đó hãy
buông xả hành vi sai trái đi. Ăn năn, hối hận hay lo âu về những hậu quả vượt
quá tầm kiểm soát của ta, cũng không giúp được gì cho ta. Hãy chấp nhận những
sai trái trong quá khứ với thái độ rộng lượng và từ bi như vị sư đã làm đối với
cho kẻ trộm mít ấy. Hành động như thế sẽ giúp ta tăng thêm tinh tấn tu tập
chánh nghiệp.
TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH NGHIỆP
• Bất cứ ai
quan tâm đến sự phát triển tâm linh cần phải tuân giữ năm giới: không giết hại,
không trộm cắp, không nói dối, không tà dâm, và không sử dụng ma túy hay rượu.
• Việc ăn thịt
theo định nghĩa không phải là sát sanh.
• Sự giết hại hay
sát sanh đòi hỏi phải có chủ đích, có ý thức, có kế hoạch, và hành động theo kế
hoạch.
• Khi chúng ta
không sát hại, là ta thực hành tâm từ bi và ta không đe dọa mạng sống của chúng
sanh nào.
• Trộm cắp nghĩa
là lấy của không cho, kể cả tư tưởng, sáng kiến của người khác.
• Khi chúng ta
không trộm cắp, chúng ta phát triển lòng tôn trọng đối với nhu cầu của người
khác và thực hành tâm hoan hỷ.
• Giới không tà
dâm bao gồm cả việc không hãm hiếp, không bắt buộc người khác phải giao hợp khi
họ không đồng ý, không lạm dụng tình dục với trẻ em, thú vật, vợ/chồng người
khác hay với người không thể tự bảo vệ; kể cả việc gian dối trong một mối liên
hệ.
• Khi chúng ta
không phạm tà dâm, thì những dục vọng thấp hèn có thể được tiêu diệt. Sự
liên hệ tình dục với người phối ngẫu hay bạn tình không bị coi là tà dâm.
• Chúng ta cần
tránh tất cả mọi sự cố ý lạm dụng các giác quan. Làm được thế sẽ giúp ta
buông xả được lòng tham ái, và qua đó, phát triển được tâm rộng lượng đối với
người.
• Nghiện rượu hay
ma túy, có thể nhanh chóng xảy mà cũng có thể do tập dần trở thành thói quen;
nghiện ngập rất tai hại, tốt nhất là đừng thử sử dụng các chất gây nghiện.
• Khi chúng ta
tránh sử dụng các chất gây nghiện, ta có thể duy trì được tâm sáng suốt và tu
tập để đoạn diệt các vọng tưởng. Chúng ta có thể phát triển tâm chánh
niệm và rèn luyện để hành động đúng theo thực tại.
• Thọ thêm các
giới luật khác, hoặc là bát quan trai luật hay tám giới luật trọn đời, có thể
là một công cụ hữu hiệu giúp ta thiền định và tiến hơn nữa trên con đường đạo.
Chánh niệm có
thể giúp chúng ta chế ngự được cám dỗ, tránh tranh cãi, và hành động đầy từ bi
với những sự vô đạo đức của người cũng như của bản thân ta.