BÁT CHÁNH ĐẠO
Con Đường Đến Hạnh Phúc
Tác Giả: Thiền Sư Bhante Henepola Gunaratana
Việt Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Bước 5
CHÁNH MẠNG
Một đệ tử
của tôi kể rằng có một nữ doanh nhân thành đạt rất quan tâm đến các giới luật
đạo đức theo Phật giáo. Một lần bà tìm được một mối kinh doanh mới, có một số tiệm
rượu đang rao bán. Bà biết nếu nhân cơ hội này mua các tiệm ấy, thì bà có thể
được nhiều lợi lộc. Tuy nhiên có điều gì đó đã ngăn cản bà lại. Khi bà quán xét
về việc kinh doanh bán rượu, bà nhận thấy rằng một số khách hàng của tiệm rượu
có thể bị tổn hại. Họ có thể uống rượu rồi làm những điều tai hại! Họ có thể trở
thành những kẻ rượu chè trác táng, hoặc tệ hơn nữa là những kẻ nghiện ngập. Để
bảo vệ sự phát triển tâm linh của mình, bà từ chối không mua, bỏ qua mối kinh
doanh đó.
Câu chuyện này đã
nói lên được một chân lý rất minh bạch: phương cách kiếm sống không nên ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm linh. Chúng ta không thể liệt kê ra một danh sách đầy
đủ những nghề nghiệp hay công việc được coi là Chánh Mạng, nhưng Đức Phật
đã cho chúng ta một hướng dẫn căn bản: bất cứ công việc/nghề nghiệp nào
cũng có thể được coi là chánh mạng nếu nó không đem lại tai hại cho bản thân
người làm công việc đó hay cho bất cứ ai khác. Dĩ nhiên, không có việc gì là
hoàn hảo. Phương cách kiếm sống hoàn hảo duy nhất là công việc được làm
bởi một người hoàn hảo -người đã hoàn toàn đoạn diệt được tất cả tham, sân, và
si. Nhưng những người như chúng ta, còn đang trên đường tiến đến sự hoàn hảo
đó, vẫn có thể làm được nhiều thứ để hòa hợp công việc làm với cuộc sống tâm
linh.
Như với hầu hết
những câu hỏi về đạo đức Phật giáo, lý do tại sao ta phải quan tâm đến Chánh
Mạng có hai mặt. Việc làm mà tổn hại đến người khác thì tự nó đã sai vì nó vi
phạm căn bản đạo đức. Nhưng nó cũng sai vì nó gây tổn hại cho bản thân người
làm công việc đó. Lý do là vì chưa giác ngộ, chúng ta không thể hoàn toàn
tránh việc bị kích động trở nên giận dữ hay đau khổ. Trong khi đó công việc
phải làm khiến ta phải tranh đấu với lòng tham và sân. Tuy nhiên chúng ta có
quyền lựa chọn để tránh những công việc có thể cản trở sự tiến bộ tâm linh của
ta. Nếu nghề nghiệp của ta gây ra quá nhiều sân hận, thì tâm không thể an tịnh
để hành thiền.
Hãy lấy một thí dụ
rất hiển nhiên. Thí dụ công việc của một người đòi hỏi anh ta phải giết thú
vật. Anh ta có thể là nhà nghiên cứu phải thí nghiệm một loại thuốc mới trên những
con chuột trong phòng thí nghiệm. Hay anh ta có thể là người bán cá hay bán
thịt heo. Khi người đó hành thiền, tâm anh ta có thể bị xáo trộn. Hằng ngày anh
phải chứng kiến các thú vật đau khổ dưới tay anh. Anh nhìn thấy nỗi sợ
hãi trong mắt chúng và sự cố gắng vùng vẫy để thoát khỏi hiểm nguy của chúng;
anh nghe được tiếng kêu rên và cảm nhận được nỗi đau của chúng. Những hình ảnh
này luôn ám ảnh anh khi trở về nhà. Để làm được công việc này, anh phải tự lừa
dối mình rằng thú vật không có cảm giác, chúng không thực sự là những sinh vật biết
đau đớn như anh. Trong tâm, anh biết rằng suy nghĩ này là không đúng, nhưng anh
tiếp tục giết hại vì đó là công việc của anh. Sự dằn xé nội tâm khiến tâm anh
bấn loạn và các hình ảnh ghê rợn lại hiện ra trong lúc anh hành thiền. Anh
không thể thực hành tâm từ bi; anh cũng không thể thư giãn. Rõ ràng công việc
của người này không thể là Chánh Mạng.
Đối với một số
công việc, như là giết súc vật, ta có thể dễ dàng biết là xấu. Còn lại, đôi khi
việc đánh giá thế nào là một việc làm/nghề nghiệp được coi là Chánh Mạng thì
phức tạp hơn nhiều. Một số công việc có thể được chấp nhận ở một số nơi nhưng
lại không được chấp nhận ở chỗ khác tùy vào hoàn cảnh, thí dụ như là người chủ có
đòi hỏi nhân viên hành động một cách vô đạo đức hay không. Sự quán sát ở ba mức
độ sau đây sẽ giúp chúng ta quyết định rằng một công việc có được coi là Chánh Mạng
hay không.
CÁC CÂU HỎI ĐỂ ĐÁNG GIÁ CHÁNH MẠNG
Chúng ta có thể quyết định xem một công việc có được coi là Chánh Mạng hay không bằng cách tự hỏi ba câu hỏi tương quan nhau.
Trước hết, công
việc của tôi tự nó có xấu không?
Đó là, qua định
nghĩa, công việc đó có xấu không? Nó có liên quan đến việc sản xuất, mua bán,
quảng cáo, hay sử dụng súng hoặc các loại vũ khí khác không? Nó có liên quan
đến chất độc hay chất gây nghiện không? Nó có gây tai hại hay giết sinh vật
không? Chính Đức Phật đã dạy rằng những nghề nghiệp liên quan đến vũ khí, chất
độc, hay giết hại thì rõ ràng không phải là Chánh Mạng.
Có nhiều nghề
nghiệp rõ ràng rơi vào loại này. Thí dụ, việc nghiên cứu, phát triển những vũ
khí hóa học, hạt nhân, sản xuất hay buôn bán thuốc trừ sâu, thiết lập những hệ thống
mạng hướng dẫn việc phóng tên lửa, hay bốc lột lao động rẻ tiền thì rõ ràng là
sai. Tôi cũng có thể thêm rằng viết lách cho những tờ báo rẻ tiền làm hại đến danh
dự của những người nổi tiếng hay làm việc cho những chương trình trực tuyến để
rao truyền những lời nói đầy sân hận cần bị coi là một loại “thuốc độc” mà Đức Phật
đã nhắc đến như là một cách kiếm sống sai trái.
Lời dạy của Đức
Phật cũng có thể áp dụng rộng rãi hơn để bao gồm những nghề không truyền
thống. Kiếm sống từ những trò chơi thể thao bạo lực khiến người ta bị
thương tổn, như là đánh võ đài, là một cách kiếm sống sai trái. Làm chủ hay làm
việc ở những casino hay những chỗ cờ bạc cũng thế. Giống như rượu, cờ bạc cũng
khiến người ta nghiện ngập. Nó xuất phát từ lòng tham, thường dẫn đến việc phạm
tội hay làm tổn hại người vô tội. Không cần phải nói, những hoạt động tội phạm
dưới bất cứ hình thức nào cũng là một cách kiếm sống sai trái, kể cả việc đầu
cơ, những loại giao dịch bất hợp pháp, lừa đảo, gian dối, và các loại tội phạm
trong các công ty. Nghề nghiệp gây nguy hiểm cho sức khỏe của bản thân
cũng là một cách kiếm sống sai trái.
Buôn bán ma túy
thì rơi vào loại buôn bán các “chất độc”. Những người buôn bán ma tuý nổi tiếng
về các hành vi bạo lực và hối lộ để bảo vệ lãnh địa, mua bán mà không bị bắt.
Chắc chắn là việc làm của họ đem lại tai họa cho những người yếu đuối sa ngã vào
việc mua và sử dụng ma tuý. Người sử dụng ma tuý cũng gây ra tội ác để có
được tiền mua thuốc. Các thành viên vô tội trong gia đình cũng phải đau khổ: từ
bạo lực trong gia đình, từ việc thiếu thốn, đói nghèo, và từ nỗi mất mát khi
người thân bị tù đày, bị hãm hại.
Tuy nhiên, vì chế
độ kinh tế của chúng ta đã trở nên quá phức tạp, nên đôi khi việc xét đoán xem
những nghề nghiệp nào bị coi là cách kiếm sống sai trái cũng không được rõ ràng,
dứt khóat lắm. Thí dụ, làm việc cho quân đội có phải luôn là xấu? Điều đó còn
tùy. Nếu công việc đặt người đó vào vị trí phải sử dụng vũ khí, kể cả dùng máy
vi tính để phóng tên lửa, thì có thể đó là cách kiếm sống sai trái. Nhưng là
một bác sĩ hay một người đầu bếp thì bản chất công việc không có gì là sai. Tôi
khó tin rằng có người đầu bếp nào, dầu ở trong quân đội, lại nghĩ, “Tôi nấu cho
những người lính này ăn để họ có thể đi giết giặc!”
Nhiều hoàn cảnh
công việc khác cũng phải được xét lại. Thí dụ, việc chế tạo những đầu đạn
hạt nhân rõ ràng là một trong những công việc bị cấm đoán theo sự liệt kê của
Đức Phật, nhưng việc đào mỏ uranium để dùng trong vũ khí hạt nhân thì
sao? Hoặc làm việc trong những cửa hàng tạp hóa, bản chất của công việc
đó có sai không, nếu như doanh thu của các cửa hàng đó phần lớn nhờ vào việc
bán súng? Hoặc làm việc với số lương ít ỏi trong các tiệm bán thức ăn nhanh thì
sao? Ta có thể nghĩ đến nhiều hoàn cảnh công việc đem lại tai hại một cách gián
tiếp cho người khác. Một vị giáo sư đại học có thể cảm thấy không an lòng khi
kết quả các công trình nghiên cứu khoa học của ông có thể được sử dụng cho mục
đích quân sự. Sản phẩm của một công nhân ngành thép cũng có thể được sử dụng để
làm súng săn.
Trong những trường
hợp như thế, ta cần phải tự hỏi, “Công việc của tôi có liên quan trực tiếp đến
vũ khí, chất độc, hay giết hại không? Tôi có cố ý đem lại tai họa cho
người khác hay cho bản thân?” Tóm lại, ta có thể sử dụng quy luật chung sau
đây: Nếu sự tách biệt giữa công việc ta làm và những nguy cơ mà nó có thể
xảy ra cho người khác càng lớn, thì nó càng khó có thể là một công việc không
phù hợp với Chánh mạng.
Thứ hai, công
việc của tôi có khiến tôi phải phạm năm giới?
Nếu một nghề
nghiệp đã qua được bước khảo sát thứ nhất thì hãy xét xem công việc làm đó có
khiến ta dễ phạm bất cứ giới nào trong năm giới của chánh nghiệp không. Nguyên
tắc đạo đức ở nơi ta làm việc cũng có thể biến một công việc bình thường thành
một cách kiếm sống sai trái. Thí dụ, trong một công ty luật, luật sư có thể
được khuyến khích duy trì những mẫu mực đạo đức cao nhất trong nghề
nghiệp. Trái lại, ở một công ty luật khác, đồng nghiệp của họ có thể bị
áp lực phải ngụy tạo các chứng cứ, gian dối bồi thẫm đoàn, hay tính giá cao đối
với khách hàng. Phạm vào những hành động vô đạo đức như thế khi làm việc khiến
cho tâm ta trở nên xáo trộn, cản trở con đường tiến bộ tâm linh của ta. Tôi nhớ
về một vị luật sư thường đến Hội Bhavana. Trong quá trình hành thiền, ông cứ
khóc mãi. Tôi tự hỏi không biết ông bị đau khổ như thế có phải vì ông đã làm
điều gì sai trái để thắng kiện ở tòa án.
Tương tự, cũng có
trường hợp mà công việc thì tốt nhưng người làm công việc đó biến nó thành
xấu. Thí dụ, một viên chức làm nhiệm vụ thẩm định trước khi cho bằng lái xe
có thể làm việc với lương tâm, nghiêm khắc, chu đáo, từ chối không nhận hối lộ.
Nhưng một người khác cũng công việc đó, trong cùng một văn phòng, có thể trở
nên tham nhũng, hối lộ. Một cán bộ tham nhũng thì không thể có Chánh Mạng,
nhưng người chân thật thì có thể. Bất cứ công việc hay nghề nghiệp nào, dầu tốt
cũng có thể bị biến chất thành xấu. Tôi biết một bác sĩ ở Malaysia chuyên
làm những tờ chứng nhận bệnh giả cho công nhân để họ đưa cho chủ; ông tính
khoảng năm đô la cho một ngày được nghỉ việc. Việc làm này đã thành thói quen
đến nỗi khi một bệnh nhân bước vào phòng khám, câu đầu tiên ông hỏi sẽ là, “Bao
nhiêu ngày?”
Một câu chuyện
tiền thân rất nổi tiếng về Đức Phật và người anh bà con có tâm địa xấu, Đề Bà
Đạt Đa (Devadatta), nói về hai người trong cùng một ngành nghề nhưng chỉ có một
người là tuân theo Chánh Mạng:
Theo truyện
kển, vị sẽ thành Đề Bà Đạt Đa đầu tiên có chuyện hiềm khích với Đức Phật trong
một kiếp quá khứ, khi sự kinh doanh chân thật của Bồ Tát -vị Phật tương lai- đã
khiến cho Đề Bà Đạt Đa bị mất một chuyến làm ăn.
Trong kiếp sống
quá khứ đó, vị Đề Bà Đạt Đa tương lai và Bồ Tát là hai người buôn bán phế liệu
rong cạnh tranh nhau, cùng đi buôn bán nồi niêu. Ở mỗi thành phố, họ sẽ chia tuyến
đường, rồi quyết định ai sẽ đi đến đâu trước. Sau đó, hai người tách ra đi
riêng, rao lên, “Ai bán nồi! bán niêu!” Lần nọ, ở một thành phố có một quả phụ sống
với con gái, trước kia họ giàu có nhưng giờ rất nghèo. Họ có một cái tô
lớn bằng vàng, bên ngoài mạ đồng xám xỉn. Hai người phụ nữ này không hề biết
được giá trị thực của cái tô. Khi Đề Bà Đạt Đa xuất hiện ở cửa nhà họ, người
con gái bảo mẹ hãy đổi cái tô lấy một món đồ khác. Đề Bà Đạt Đa tham lam nhận
ngay ra được cái tô đáng giá cả một gia tài, nhưng quyết định lừa dối hai mẹ
con người đàn bà khốn khổ kia. Anh ta vứt cái tô xuống đất, bảo nó chả có giá
trị gì, và bỏ đi với ý định sẽ quay trở lại để mua với giá chẳng đáng gì.
Không lâu sau, Bồ
Tát cũng ghé đến nhà đó, hai người phụ nữ e dè ngã giá cái tô để lấy một món đồ
khác. Bồ Tát chân thật bảo cho họ biết về giá trị thực của cái tô và nói rằng
ông không đủ sức để trả họ tiền dù chỉ là một phần nhỏ giá trị của cái tô ấy.
Hai người phụ nữ rất vui mừng và hết lòng kính trọng Bồ Tát vì lòng chân thật
của ông. Họ bảo ông đưa cho họ bất cứ gì mà ông có thể đưa. Bồ Tát đã đưa cho
họ tất cả tiền và tất cả nồi niêu. Đổi được chiếc tô vàng, Bồ Tát vội vã qua
sông vì ngài đoán được ý đồ của Đề Bà Đạt Đa.
Sau khi Bồ Tát ra
đi, Đề Bà Đạt Đa quay trở lại căn nhà kia. Bà quả phụ chạy ra trách mắng
ông đã có ý muốn lừa dối họ. Bà báo cho ông biết rằng có một người buôn bán phế
liệu khác, rất thật thà, đã mua chiếc tô và đã trả tiền cho họ rất hậu hĩnh.
Biết mình đã thất bại, Đề Bà Đạt Đa kêu than và trở thành giống như người mất
trí. Ông ta xé áo quần, vứt đồ đạc qua một bên và chạy đuổi theo Bồ Tát,
la mắng rằng Bồ Tát đã cướp chiếc tô vàng của ông. Khi đến bờ sông, ông thấy Bồ
Tát đã được người chèo đò đưa qua được nửa sông. Ông lớn tiếng gọi người
chèo đò dừng lại, nhưng Bồ Tát lặng lẽ bảo người chèo đò cứ đi tới. Khi hình
bóng Bồ Tát khuất dần, hận thù trong lòng Đề Bà Đạt Đa trào dâng. Máu nóng
tuôn tràn ra cửa miệng. Tim ông bể làm đôi và ông ngã xuống
chết.
Như thế là Đề Bà
Đạt Đa đã bị hủy diệt bởi chính sự kinh doanh không chân thật của mình. Bồ Tát
trở nên giàu có từ việc bán được chiếc tô vàng mà người đã mua một cách chân
thật. Ngài sống cuộc đời còn lại làm các việc thiện và luôn bố thí giúp
người. Khi mất đi, sự trung thực của Bồ Tát đã giúp ngài có được
những kiếp sống tương lai tốt đẹp, dần dần ngài đạt được quả vị Phật. Trái lại,
những hành động bất thiện của Đề Bà Đạt Đa cũng đưa ông ta đến những cuộc sống
tương lai tương ưng. Đề Bà Đạt Đa tiếp tục là kẻ kình chống, tranh chấp với Đức
Phật. Trong kiếp sống cuối cùng của Đức Phật, sau khi Ngài đã giác ngộ, Đề Bà
Đạt Đa còn cố gắng âm mưu giết Phật. Có lời kể rằng khi đó mặt đất mở ra và ông
rơi xuống địa ngục. (J 3)
Câu hỏi cuối
cùng là, có khía cạnh nào của công việc khiến tôi không cảm thấy thoải mái, và
tâm tôi không an tĩnh?
Nếu một nghề
nghiệp đã không phạm vào hai điều đầu tiên vừa nêu trên, thì ta cần xét đến
những khía cạnh khác có thể ảnh hưởng đến sự tiến bộ tâm linh của ta. Việc
này không đơn giản. Vì không có công việc nào là hoàn hảo, mỗi chúng ta
phải tự quyết định xem yếu tố nào là không thể khắc phục được. Đồng
nghiệp bất chánh? Khách hàng thô lỗ? Hóa chất hại phổi? Sản phẩm làm ô nhiễm
môi trường? Có liên hệ gián tiếp với những công ty bóc lột nhân công?
Theo ý tôi, cách
tốt nhất để xét xem một nghề nghiệp có được coi là chánh mạng hay không là đo
lường mức ảnh hưởng của nó đối với tâm. Thí dụ một công ty đổ các chất
độc hại xuống sông, làm ảnh hưởng đến cá tôm và các sinh vật hoang dã
khác. Sau đó công nhân trong công ty mới được biết về việc trút đổ bừa
bãi này. Hai trong số những công nhân này rất quan tâm đến việc thực hành chánh
mạng. Vậy họ có phải bỏ việc làm ở công ty này không?
Một công nhân tràn
đầy lòng ghê tởm với những gì đã xảy ra. Tâm anh cứ nhớ đi nhớ lại những hình
ảnh từ bản tin trên truyền hình về sự kiện này. Anh nghĩ đến tính cách bất
thiện của những người đã quyết định làm thế và tâm anh tràn ngập những lời buộc
tội theo cách nhìn của anh. Người công nhân thứ hai vẫn tiếp tục làm việc
với lòng đầy trắc ẩn đối với những ai bị ảnh hưởng, kể cả những người chịu
trách nhiệm cho quyết định đó. Cô vẫn hy vọng rằng những người có quyền trong
công ty sẽ nhận thức được hành động sai trái của họ và có biện pháp để sửa đổi
và ngăn chặn những vấn đề tương tự như thế có thể xảy ra trong tương lai. Suy
nghĩ như thế khiến tâm cô yên ổn. Có người cho rằng cả hai công nhân này nên
nghỉ việc vì họ làm cho một công ty không có lương tâm. Kẻ khác thì nói
chỉ có người công nhân với lòng bất mãn công ty nên nghỉ việc, vì công việc này
đem đến những ảnh hưởng không tốt cho tâm anh.
Chúng ta cần sử
dụng trí tuệ và sự hiểu biết Phật pháp để suy ra điều gì là đúng. Các căn
bản đạo đức cũng góp phần giúp ta biết điều phải trái. Ta không muốn tham gia
hay ủng hộ những hành động thiếu đạo đức. Hơn nữa, phớt lờ tiếng nói của lương
tâm cũng là thiếu đạo đức. Nếu chúng ta tự nhủ, “Tôi không thể thay đổi được
gì, hơn nữa, những gì xảy ra thực sự không ảnh hưởng đến cá nhân tôi.” Suy nghĩ như thế là chúng ta tự tách mình ra khỏi cộng đồng thế giới. Giáo lý
của Đức Phật về tình thương yêu khuyên chúng ta phải quan tâm không chỉ đến bản
thân, người thân thích, mà còn cả đến bà con hàng xóm, cộng đồng -tất cả mọi
người! Mỗi chúng ta chỉ là một tế bào riêng lẻ nhỏ bé, nhưng tụ họp lại với
hàng tỷ tế bào khác, chúng ta trở thành là một bộ phận của thế giới. Vì thế
chúng ta có bổn phận phải bảo vệ cho công lý. Nhưng –và đây là một điều
rất quan trọng– khi làm thế, chúng ta phải cẩn thận để không ác cảm với người
khác hay kết tội họ một cách đầy hận thù. Bất cứ hành động gì mà chúng ta có
chủ tâm, ngay cả hành động cố ý để sửa đổi một điều sai trái, cũng phải bắt
nguồn từ lòng thương yêu, bi mẫn đối với người cũng như đối với tất cả mọi
chúng sanh. Với tâm niệm này và với lòng tràn đầy bi mẫn, lúc đó chúng ta hãy
hành động.
Trở lại câu hỏi
rằng hai công nhân của công ty gây ô nhiễm đó có nên nghỉ việc không, chúng ta
không thể đưa ra một kết luận vội vàng. Tùy thuộc vào trình độ tâm linh của chúng
ta, mà việc bỏ làm có thể là đúng hay sai. Nhưng có một điều chắc chắn: việc
cần làm là luôn bảo vệ, nuôi dưỡng thiện tâm của mình. Thái độ bàng quan đối
với cái ác không phải là thiện. Tuy nhiên sự bực tức, giận dữ hay hận thù
cũng không phải là thiện. Ngay nếu như ta quyết định bỏ việc để duy trì Chánh
Mạng, nhưng bỏ việc trong tâm trạng sân hận cũng không ích lợi gì cho con đường
tu của mình. Ta phải giữ tâm bình tĩnh, không oán hận và đầy chánh niệm.
Phải luôn nhớ rằng mục đích tối thượng của ta là để giải thoát tâm khỏi tất cả mọi
tham, mọi sân và mọi si. Ảnh hưởng sâu sắc nhất mà ta có thể tạo ra trên thế
giới này là đối mặt với mọi hoàn cảnh bằng tâm trong sáng, bi mẫn, và thương
yêu. Với trạng thái tâm tĩnh lặng và buông xả, chúng ta có thể hành động hay từ
chối hành động, hay làm bất cứ điều gì để có thể vun trồng và biểu hiện được
tình thương yêu và lòng bi mẫn của chúng ta một cách tốt nhất.
Dựa vào những điều
vừa nói trên, tốt nhất là các công nhân của công ty ô nhiễm đó nên tu tập để
tâm mình được bình an. Rồi với trạng thái tâm trong sáng, bình lặng, họ xét đến
những điều kiện của cá nhân và xã hội, rồi quyết định có nên tiếp tục liên hệ
với công ty đó hay không. Đó là hành động đầy tình thương và bi mẫn nhất
mà các công nhân này có thể làm. Họ có thể xét xem sự kiện đó quan trọng thế
nào, nó có tính cách cá biệt hay là chủ trương chung của công ty, cá nhân họ có
liên quan trực tiếp đến việc đó hay không, họ có thể tiếp tục làm việc ở
công ty đó mà không cảm thấy quá áy náy hay không. Một công nhân nhạy cảm dầu
không liên hệ gì đến việc quản lý công ty, cũng có thể cảm thấy bức xúc hơn là
một vị quan chức vô tâm. Nếu hành vi thiếu đạo đức của công ty gây khó
chịu cho người công nhân, khiến tâm lý họ bất an, không thể chú tâm làm việc
thì chắc chắn là họ phải có thái độ quyết định.
Nghỉ việc chỉ là
một lựa chọn, còn có nhiều phương cách khác nữa. Thí dụ công nhân có thể kiến
nghị với công ty để ngăn chặn việc làm sai trái đó hay báo với các cơ quan có thẩm
quyền về hoạt động này của công ty, hoặc giúp đỡ các nạn nhân, viết bài gợi ý
với công ty về những việc cần làm để tránh phạm thêm lỗi lầm hay chuyển đến một
bộ phận khác trong công ty. Nếu người công nhân trên quyết định bỏ việc,
thì cũng không cần vội vã. Người đó có thể bắt đầu bằng cách thăm dò kín
đáo về khả năng tìm được việc làm khác. Ở mỗi giai đoạn, anh ta phải tự
hỏi, “Tôi có thể làm gì để thể hiện tâm buông xả, tình thương, từ bi và sự quan
tâm đến mọi chúng sanh? Những hành động nào có thể hỗ trợ cho tánh bổn thiện của
tâm?”
Ngoài việc quan
tâm đến khía cạnh đạo đức của công ty, nếu ta còn phải lo lắng đến những vấn đề
khác nữa thì nghề nghiệp đó khó thể là chánh mạng. Thí dụ, một nghề
nghiệp bình thường có thể là rất lý tưởng nhưng ta không thể chấp nhận khi ông
chủ ở đó có thói quen sàm sỡ, hay lúc nào cũng nóng giận, hoặc nhiều đồng
nghiệp ở chỗ làm có thói quen uống rượu lúc ăn trưa, có những “bữa tiệc sau
cánh cửa đóng,” sử dụng ma túy trong phòng làm việc.
Dầu rằng bạn có
thể duy trì được sự độc lập của mình trong các môi trường như thế. Bạn phải tự
quyết định xem những đồng nghiệp như thế có ảnh hưởng đến tâm hay cản trở sự
phát triển tâm linh của bạn không. Đánh giá được một công việc có là Chánh Mạng
hay không tùy thuộc vào mỗi cá nhân. Cùng một hoàn cảnh mà có thể khiến người
này sa vào các bất thiện pháp, còn người khác thì coi đó là một cơ hội để thực
hành lòng kiên nhẫn và bi mẫn.
TUÂN GIỮ CHÁNH MẠNG
Đến lúc này, có
thể một số người cảm thấy buồn lòng khi nhận ra công việc họ đang làm không
phải là chánh mạng. Có thể họ tự hỏi, “Tôi phải làm gì bây
giờ?” Câu trả lời là có rất nhiều chọn lựa, kể cả những phương cách để thay đổi
hoàn cảnh mà không phải bỏ công việc làm. Như tôi đã nói phía trên, có
thể trước hết, ta phải cố gắng nhắc nhở công ty sửa đổi sai trái.
Nếu ta cảm thấy
không thoải mái với công việc làm là do hành vi của các bạn đồng nghiệp, thì
đừng quên áp dụng lời Phật dạy về từ bi (metta). Tình thương, lòng từ bi có
thể chinh phục cả những trái tim cứng rắn nhất. Người ta thường nói không có gì
có thể làm hại một người tràn đầy lòng từ bi -kể cả súng đạn hay lửa, nói gì
đến việc bị phiền hà ở sở làm! Nếu mỗi ngày trước khi bắt đầu làm việc, ta dành
đôi phút để quán tưởng về tình thương yêu, thì biết đâu sẽ có nhiều đổi thay?
Ngay chính những kẻ thường làm điều bất thiện, đôi khi cũng thay đổi nếu như có
ai đó, ở nơi nào đó, mỗi ngày đều hướng tâm từ, tình thương trong sạch, mạnh mẽ
đến cho họ. Trước khi đầu hàng trước một công việc khó khăn, có thể ta
cũng nên thử áp dụng phương pháp này. Ngay nếu như các đồng nghiệp của ta
không thay đổi, thì tâm ta chắc cũng sẽ được thanh tịnh hơn. Có thể ta sẽ bắt
đầu cảm thấy có lòng tử tế và bi mẫn đối với những người mà trước đây họ thường
khiến ta khó chịu, bực bội.
Tuy nhiên có một
số công việc hay hoàn cảnh không thể sửa đổi được và chúng ta đành phải bỏ
việc. Đôi khi ta phải chấp nhận hy sinh để đi theo con đường của Đức Phật. Ngài
đã dạy rằng ta không nên tìm lợi nhuận bằng những phương tiện sai trái:
Khi, không
phải vì lợi lộc cho ta hay cho người,
không phải cho
con cái, tài sản, ngôi vị,
hay cho lợi
nhuận bằng những phương tiện sai trái,
Chỉ khi đó thì
người ta mới có đạo đức, trí tuệ và chân chánh.
(Dh 84)
Đối với người
có khả năng đặc biệt hay quen biết nhiều, việc nghỉ làm hay thay đổi nghề
nghiệp có thể là một quyết định dễ dàng, không phải hy sinh nhiều. Nhưng đối
với người không có nhiều chọn lựa, họ có thể cảm thấy rất sợ hãi khi nghĩ đến
việc mất đi đồng lương cố định, nhất là khi họ còn phải lo cho con cái. Tuy nhiên, khi đó là một vấn đề liên quan đến phẩm cách con người, chúng ta bắt
buộc phải hành động. Ở đây tôi không nói đến những hành động theo bản năng,
thiếu chín chắn, mà trước hết phải tính toán hết sức cẩn thận, với tất cả khả
năng của mình. Kế tiếp, sau khi đã hoạch định mọi thứ, thì hãy hành động với
niềm tin. Đã có lời nói rằng, “Những người bảo vệ chánh pháp, sẽ được chánh pháp
bảo vệ.” (Thag 303) Điều đó có nghĩa là khi ta dựa vào những gì ta tự
biết trong tâm là chân thật, thì mọi việc đều có kết quả tốt, mang đến nhiều
hạnh phúc cho ta. Tôi đã thử nghiệm điều này trong cuộc đời mình và luôn
thấy rằng nó rất đúng. Đây là câu chuyện của bản thân tôi về việc tuân theo
Chánh mạng với đầy tín tâm.
Trước khi thành
lập Hội Bhavana, tôi trụ trì một ngôi chùa nhỏ nhưng khá nổi tiếng ở Washington
D.C trong hai mươi năm. Tôi đã có vị trí trong cộng đồng, với một địa vị vững vàng,
có một ban chấp hành năng nổ, có bạn bè và gia đình ở bên cạnh. Tuy nhiên trong
lòng tôi vẫn mơ đến việc thiết lập một trung tâm thiền, nơi mọi người có thể
đến để học hỏi Phật pháp và hành thiền. Đức Phật luôn nhắc nhở đến việc học
Pháp và hành thiền như là những điều quan trọng nhất, tuy nhiên tôi thấy nhiều
người không có chỗ nào để đến khi họ muốn hành thiền một khoảng thời gian. Ý
định của tôi là tốt và niềm tin của tôi mãnh liệt.
Bạn bè và gia đình
can ngăn tôi, “Sư đang giữ một vị trí cao ở ngôi chùa Nguyên Thủy đầu tiên ở
Mỹ, ngay tại trung tâm thủ đô. Sư không nên rời bỏ nơi này.” Ở một mức độ nào
đó dĩ nhiên là họ đúng. Rời bỏ Washington D.C để thiết lập một trung tâm tu
thiền ở vùng quê là nhảy từ một vị trí được nhiều người ngưỡng mộ xuống một nơi
đầy bất trắc.
Miếng đất mà bạn
tôi, Matthew Flickstein và tôi tìm được để xây trung tâm thiền nằm sâu trong
những cánh rừng của miền tây Virginia.
Cánh rừng biệt lập, yên tĩnh và thanh vắng, có vẻ là một môi trường lý tưởng để
truyền dạy Phật pháp và hành thiền. Mảnh đất rất đẹp, rất xa sự náo nhiệt của Washington, nhưng nằm
trong một vùng của người Kitô giáo bảo thủ mà lại xa các thí chủ của chúng tôi.
Vùng đất đó hoàn toàn xa lạ đối với tôi và chúng tôi bắt đầu tạo dựng trung tâm
ở nơi đó mà không quen biết một ai. Hội mới của chúng tôi chưa có thành
viên. Chúng tôi không biết làm thế nào để trường tồn. Gia đình và bạn bè lo
lắng về việc ăn uống của tôi. Người khác thì lại lo về sự an toàn của tôi,
nhưng tôi nghĩ rằng với thiện tâm của mình, thì dầu cho người trong vùng này
bảo thủ đến đâu, họ cũng biết là chúng tôi không làm hại họ, cũng không chống
lại tôn giáo họ, thì họ không thể hại chúng tôi. Ngay sau khi mua được đất,
chúng tôi hăng hái dựng lên một tấm biển gần đường đề “Làng (Phật) Pháp
(Dhamma).” Không lâu sau thì ai đó đã xóa một số chữ để đọc thành, “Làng Bị
Nguyền Rủa (Dam)”. Sau nữa thì tấm biển báo đó đã bị tháo
xuống.
Không màng những
sự nguyền rủa và các chướng ngại , chúng tôi bắt tay vào dự án của mình. Gần
như tất cả bạn bè đều khuyên tôi đừng làm nữa, còn khuyến khích thì chưa đến năm
người. Nếu có gì xảy ra trong trường hợp khẩn cấp, chúng tôi sẽ không có
ai đến giúp. Người thân và bạn bè tôi ở Washington, cách nơi này cả trăm cây
số.
Tôi không thể kể
cho bạn nghe hết những khó khăn buổi ban đầu. Trong khoảng thời gian đó, ngay
chính người bạn đã giúp tôi khởi đầu trung tâm cũng có vẻ hoang mang. Nhưng chính là niềm tin ở Phật pháp đã bảo vệ tôi. Ước muốn của tôi là truyền
bá Phật pháp qua việc hoằng pháp và viết sách, hoàn toàn miễn phí cho mọi
người. Ngay khi còn là một chú sadi, tôi cũng không nhận sự cúng dường để
được nghe pháp của các cư sĩ. Khi lớn lên, tôi được biết là Đức Phật cấm
việc buôn bán Pháp. Ngài khuyên: “Đừng làm một kẻ buôn bán Pháp.” (Ud
VI.2) Qua thời gian, mọi việc từ từ ổn định và chúng tôi đã tạo ra
được một trung tâm thiền từ trong rừng. Rất nhiều việc lạ kỳ đã xảy ra –nhiều
sự hỗ trợ đến từ những nguồn không đoán trước được, vào khi chúng tôi cần
được giúp đỡ nhất, và những liên hệ bất ngờ cũng mang đến kết quả. Bằng
cách nào đó chúng tôi đã phát triển, lớn mạnh.
Kinh nghiệm bản
thân đã dạy tôi rằng khi tôi đi theo tiếng gọi an bình và hạnh phúc của trái
tim, chấp nhận hy sinh để giữ phẩm cách, và hết lòng vì chân lý, thì phần
thưởng của chánh mạng sẽ tiếp nối theo sau.
Tuy nhiên, tôi
cũng biết rằng các điều kiện kinh tế có thể khiến cho sự chọn lựa của ta thêm
khó khăn, nhất là đối với những người mà học vấn và khả năng hạn chế hay quá
chuyên môn. Phải làm gì đây nếu chỉ có một loại công nghiệp trong vùng? Nếu bạn
đông con, lại có cha mẹ ốm đau, hay một đứa con luôn bệnh hoạn cần được chăm
sóc mà công việc tiện lợi duy nhất là làm việc ở tiệm bán rượu gần nhà, thì
phải làm sao? Hoặc bạn sống ở một vùng mà chỉ có săn bắn và câu cá để sinh tồn
thì sao? Chánh mạng có nghĩa gì đối với những người sống trong những điều kiện
kinh tế quá khó khăn hay bị những người có quyền lực ép buộc phải tham gia vào
những hoạt động bất hợp pháp, như là trồng các loại cây để sản xuất ma túy một cách
bất hợp pháp? Nếu bạn ở trong những hoàn cảnh như thế, hãy tự an ủi với ý thức
rằng khi bạn không cốt ý để hại ai, thì bạn không phải chịu trách nhiệm cho
những hậu quả tai hại mà bạn không phải là nguyên nhân trực tiếp. Một câu
chuyện từ thời Đức Phật sẽ làm rõ hơn điểm này.
Con gái của một
nhà kinh doanh giàu có đã được nghe pháp và đã đạt được đến giai đoạn đầu của
giác ngộ. Một ngày kia, một người thợ săn đẹp trai buôn bán ngà voi, đi ngang
qua làng, và cô gái đem lòng yêu người đó. Không một lời từ giã gia đình, cô đi
theo người thợ săn về nhà và họ trở thành vợ chồng. Là vợ của người thợ săn, cô
phải lau chùi và chuẩn bị cung tên, lưới bẫy mà anh ta dùng để săn. Cô làm
những bổn phận này một cách cam chịu. Họ có với nhau bảy người con và cũng đến
lúc con cái đều lập gia đình.
Một ngày kia khi
Đức Phật quan sát thế giới với tâm nhãn thông, Ngài thấy rằng cả gia đình này có
thể được giác ngộ, vì thế Ngài đến thăm họ. Đức Phật đầu tiên đến bên cái bẫy
trống được người thợ săn gài. Ngài để lại dấu chân cạnh bên cái bẫy rồi đợi bên
bụi cây. Khi người thợ săn đến và nhìn thấy cái bẫy trống trơn, với những dấu
chân bên cạnh, anh ta nghĩ rằng ai đó đã đánh cắp con mồi trong bẫy của anh.
Nhìn thấy Đức Phật bên bụi cây, anh ta nhắm cung và chĩa mũi tên vào Đức Phật
và rồi trở nên bất động trong tư thế đó. Bảy đứa con đến tìm cha, và nhìn thấy
cha đứng đó, cung tên đã giương ra, nhưng không chuyển động được. Họ cũng
nhắm cung tên vào Đức Phật và cũng trở nên bất động. Cuối cùng người vợ đi tìm
cả gia đình. Cô thấy tất cả mọi người đều chỉa mũi tên vào Đức Phật. Cô la lên,
dang hai tay ra, “Đừng giết cha ta!” Khi gia đình cô nghe những lời này, họ
nghĩ rằng người đó phải là cha của bà, người mà họ chưa bao giờ gặp. Người
chồng nghĩ, “Đây là cha vợ tôi!” Những đứa con nghĩ, “Đây là ông ngoại của
chúng tôi!” Trong tim họ tràn đầy tình thương yêu dành cho người đó và vì thế
họ bỏ vũ khí xuống và chào hỏi. Sau đó Đức Phật ban cho họ một bài pháp, và tất
cả đều đạt được sơ thiền.
Sau đó, khi Đức
Phật trở về tu viện, các vị đệ tử của Ngài rất ngạc nhiên, họ hỏi Đức Phật,
“Làm sao có thể như thế? Làm sao người đàn bà này có thể chuẩn bị cung
tên và bẫy để giúp giết các con thú khi bà đã thông hiểu Phật pháp?” Đức Phật
giải thích rằng người phụ nữ kia không tham gia vào việc giết hại thú vật. Hơn
thế nữa cô cũng không muốn làm hại thú vật. Cô chỉ làm bổn phận của mình như là
vợ của người thợ săn. (DhA124)
Sau đó Đức Phật giải thích rộng hơn:
Bàn tay
không thương tích
Có thể tiếp xúc
với chất độc mà vẫn an toàn;
Không có thương
tích, chất độc không thể thấm vào,
Cũng thế, uế
nhiễm không thể thấm vào
Tâm trong
sạch.
(Dh1 24)
Khi tay không
bị thương thì ta có thể tiếp xúc với chất độc mà không sợ nguy hiểm. Cũng
thế, những hành động sai trái không thể ảnh hưởng đến ta, nếu ta không
chủ ý thực hiện các hành động đó. Mặc dầu vợ người thợ săn chuẩn bị các
dụng cụ để săn thú, nhưng bà làm do phải vâng lời chồng, vì trong nền văn hóa
đó, ở vào thời ấy, người vợ không có nhiều lựa chọn về bất cứ điều gì. Nhưng sự
không có chủ ý muốn sát hại của người vợ đã che chở tâm bà khỏi những hậu quả
tiêu cực. Vì bà không muốn làm hại đến thú vật, hành động của bà là vô
tội.
Nếu bạn cảm thấy
cách kiếm sống của mình không tốt, nhưng không có cách gì khác hơn để giúp bạn
và gia đình sinh sống, bạn có thể vẫn giữ công việc cũ, nhưng dần dần cố gắng tìm
việc làm tốt hơn. Trong thời gian hiện tại, hãy quán từ bi, gửi tình thương đến
tất cả những ai có thể bị ảnh hưởng bởi công việc của bạn, và hãy giữ tâm thanh
tịnh bằng cách duy trì chủ tâm vào các thiện pháp.
Nếu chúng ta chấp
nhận Chánh Mạng là mục đích của mình, thì ta có thể dần dần tiến đến đó khi sự
thực hành tâm linh của ta đã tiến bộ. Cuối cùng là công việc của ta phải
mang đến sự thoải mái tinh thần cho tất cả những người liên quan, vì hành động
của ta ảnh hưởng đến người khác. Tôi biết một đôi vợ chồng kinh doanh trong gia
đình bằng cách làm những món đồ chơi bằng gỗ rất đẹp, đặc biệt rất an toàn cho
trẻ em. Sau đó, họ phát triển kinh doanh đến những cộng đồng khó khăn, tạo công
ăn việc làm cho nhiều người. Thay vì đòi hỏi người công nhân phải làm việc tại
xưởng, họ cung cấp vật liệu, huấn luyện tay nghề và cho phép công nhân được làm
đồ chơi tại nhà, trả công theo sản phẩm. Phương cách này cho phép người thợ có
thể tập trung cuộc sống quanh gia đình, và có thể làm việc hay nghỉ ngơi tùy ý.
Đôi khi người ta
hỏi tôi, “Làm sao có thể tìm được nghề nghiệp theo chánh mạng?” Vì từ mười hai
tuổi đến giờ, tôi chỉ làm có một công việc là tu, tôi không phải là người có
thể giúp bạn chọn nghề hay cách tìm việc. Tuy nhiên tôi có thể khẳng định như
thế này: Phương cách để tìm Chánh Mạng cũng giống như khi bạn bắt đầu một nhiệm
vụ to lớn, mới mẻ nào. Đừng quan trọng thái quá. Chỉ thực hiện từng bước
cho đúng.
CHÁNH NIỆM VỀ CHÁNH MẠNG
Chấp nhận rằng
công việc ta làm là một khía cạnh của việc thực hành tâm linh thì không dễ
dàng. Nhiều người tách bạch công việc họ làm ra khỏi đời sống tâm linh của họ.
Tuy nhiên, khi ngồi xuống gối thiền, quán sát những hành động trong quá khứ,
chúng ta phải thừa nhận rằng công việc ta làm chính là hành động của ta, ngay
cả khi đó là theo lệnh chủ hay do công việc đòi hỏi. Nói dối thì vẫn là nói
dối, dầu ta được trả tiền để làm điều đó. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về
những gì ta nói hay làm ngay trong kiếp sống này hay trong tương lai. Vì
thế chúng ta phải tuân giữ đạo đức trong công việc làm cũng như đối với các
hành động khác. Như với Chánh Ngữ và Chánh Nghiệp, Chánh Mạng cũng đòi
hỏi chúng ta phải luôn thanh lọc hành động của mình, dầu là ở nhà hay ở sở làm.
Ngay cả khi công
việc của chúng ta được coi như là Chánh Mạng, mỗi ngày làm việc, ta cũng cần
luôn quan tâm đến những vấn đề đạo đức khi chúng phát sinh. Ta phải ý thức rõ ràng
về năm giới và cẩn thận gìn giữ để đừng bao giờ phạm giới. Những vấn đề đạo đức
không nằm trong năm giới, đòi hỏi chúng ta phải suy xét xem ta có thể chịu đựng
được hậu quả hành động của chúng không.
Khi sự thực hành
thiền chánh niệm của ta đã tiến bộ nhiều, ta có thể trở nên kiên nhẫn và bình
tĩnh hơn đối với những hoàn cảnh mà trước đây ta không thể chấp nhận, và ta có
thể bằng lòng đối với bất cứ công việc chân chính nào. Điều quan trọng
nhất cần ghi nhớ là công việc làm không được ảnh hưởng đến khả năng tiến bộ tâm
linh của chúng ta. Khi chúng ta không gây não hại cho bản thân bằng cách phạm
giới hay tham gia vào những hoạt động ảnh hưởng đến đạo đức, thì tâm ta sẽ được
bình an, tự tại. Với tâm bình an, tự tại, dĩ nhiên là ta có thể tiến bộ
trên đường đạo. Khi đã dẹp được các chướng ngại, ta chỉ cần bước
tới.
Điều này có thể
được so sánh với cách chúng ta sinh tồn. Khi đói, ta ăn. Khi khát, ta
uống. Ta mặc áo ấm khi trời lạnh. Ta phòng ngừa bệnh hoạn. Ta tránh những hành
động và hoàn cảnh đem lại nguy hiểm cho thân. Nhưng chúng ta không rêu
rao: “Tôi phải sống, tôi phải sống!” Nếu ta đã cung cấp đủ các nhu cầu căn bản,
thì thân tự động sẽ duy trì được cuộc sống. Tương tự, trong Chánh Mạng,
trách nhiệm duy nhất của chúng ta là tránh làm hại cho bản thân và cho người,
để ta có thể giữ được tâm bình an, thanh tịnh. Với tâm tự tại, chúng ta
có thể hành thiền và tiến bước trên con đường đến hạnh phúc, theo dấu chân
Phật.
Nếu muốn tiến
nhanh hơn nữa, ta có thể tìm những việc làm hay nghề nghiệp có thể vun trồng,
giúp ích thêm cho sự tu tập của ta, và thúc đẩy ta thêm tinh tấn. Một
công việc như thế sẽ tạo ra những hoàn cảnh để thử thách các khuyết điểm của
ta, qua đó ta có thể tu sửa nhưng không tạo ra quá nhiều áp lực và tránh đặt ra
những vấn đề mà trước mắt chúng ta không chuẩn bị để đối phó. Thí dụ, một người
đang cố gắng để vun trồng các trạng thái tâm định vi tế hơn, thì công việc
thích hợp nhất là làm những việc cố định, dễ dàng, không phải động não
nhiều. Trái lại, người muốn vun trồng kiên nhẫn có thể phát triển trong
một công việc đòi hỏi phải đối đầu với người khó tính hay hoàn cảnh khó khăn.
Trong lúc tọa
thiền, hãy dành chút thời gian áp dụng phương pháp tự vấn ba bậc như đã nói ở
trên để đánh giá xem công việc hiện tại của ta góp phần như thế nào vào Chánh
Mạng. Từ đó, ta có thể quyết định xem công việc ấy có cần sửa đổi gì thêm cho
tốt hơn. Hãy tự hỏi xem hiện tại ta có thể làm gì để công việc của ta trở nên
ích lợi hơn cho bản thân và cho người.
TÓM LƯỢC VỀ CHÁNH MẠNG
Đây là những điểm chánh yếu cần ghi nhớ về Chánh Mạng:
• Phương tiện kiếm sống của chúng ta không được ảnh hưởng xấu đến sự phát triển tâm linh của ta.
• Chúng ta có thể đánh giá xem một nghề nghiệp có được coi là chánh mạng không bằng phương pháp khảo sát ba cấp bậc.
• Ở bậc đầu tiên, ta xét xem nghề nghiệp đó tự nó có tai hại cho người hay cho bản thân không.
• Ở bậc thứ hai, ta xét xem công việc đó có khiến ta phải phạm vào một trong năm giới luật không.
• Cuối cùng, ta xét xem các yếu tố khác liên quan đến công việc có làm cho tâm khó an tịnh không.
• Tâm từ bi có thể đem lại ảnh hưởng tốt cho một hoàn cảnh công việc khó khăn.
• Nếu ta không chủ tâm làm hại ai, tâm ta sẽ không bị uế nhiễm bởi những hậu quả tiêu cực của công việc.
• Chánh Mạng là mục tiêu tối hậu phải đạt được khi công phu tu tập của ta đã tiến triển.