Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

02. Tôn Giáo và dân tộc

15 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 12033)
02. Tôn Giáo và dân tộc

TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC
Tuệ Minh Đạo Nguyễn Đức Can

CHƯƠNG I
TÔN GIÁO VÀ DÂN TỘC

Trải qua mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ Việt Nam đã tạo dựng được một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, xuyên suốt chiều dài lịch sử, văn hóa Việt Nam luôn có sự giao lưu với văn hóa của nhiều quốc gia khác.

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội văn hóa, nên nó cũng tuân theo qui luật vận hành của văn hóa nói chung. Có những tôn giáo ra đời và phát triển trong lòng dân tộc (nội sinh), có những tôn giáo từ các dân tộc khác du nhập vào (ngoại nhập). Đó là tình hình chung về tôn giáo ở hầu hết các nước trên thế giới. Tuy nhiên, mỗi nước có một đặc thù riêng của mình. Quí độc giả hãy cùng tôi điểm qua về các tôn giáo trong nước.

Trong phạm vi bài này tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến “Văn hóa Phật Giáo và dân tộc”, để quí độc giả tìm hiểu khái quát về Phật Giáo đã du nhập vào Việt Nam từ bao giờ? nguồn gốc của đạo Phật ra sao? và đã Việt Nam hóa văn hóa Phật giáo như thế nào?. Phật Giáo đã gắn liền theo dòng lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt bằng các hình thức gì?

* PHẬT GIÁO:

Thủy tổ của Phật giáoThích-Ca Mâu-Ni (nguyên tên là Tất-đạt-đa, Sidharta), sinh vào khoảng thế kỷ thứ sáu trước công nguyênẤn Độ, (cùng thời với Khổng Tử). Ngài là con vua nước Gia-Tỳ-La (Kapila). Năm 19 tuổi ngài bất mãn với chế độ giai cấp chủng tính ở đương thời, và thấy đời người ta có những nỗi khổ vì sinh, lão, bệnh, tử, bèn từ cha mẹ, biệt vợ con, bỏ cái giàu sang ở chốn cung đình vào Tuyết Sơn đi tu, đến năm 35 tuổi thì ngài được chính giác, nghĩa là ngài được thành Phật ở gốc một cây bồ đề trên bờ sông Vi-liên-thiền. Đời sau gọi chỗ ấy là “Bồ-đề đạo tràng” (Bodhi-manda, hay là kim-cương tọa (Vadjrasana). Từ đó, ngài chu du khắp các nước ở lưu vực sông Hằng để truyền giáo thuyết pháp trong hơn 40 năm. Cuối cùng ngài đến một vườn cây ở gần thành Câu-thi-na-kiệt (Kusinagara) rồi chết. Sách Phật gọi là viên tịch hay nhập niết bàn.

Việt Nam nằm trên đường giao lưu Ấn Độ và Trung Hoa. Khi Phật giáo từ Ấn Độ truyền ra nước ngoài theo hai đường Nam, Bắc thì Việt Nam tiếp xúc được với cả hai con đường truyền bá đó. Sử sách ghi năm 159 là năm đầu tiên người nước Thiên Trúc (tức Ấn Độ cổ đại) đến miền Trung Việt Nam. Năm 161 họ lại đến, hiện còn các chứng tích về một nhà tu hành Ấn Độ tên gọi Khâu Đà La (Kaudra hay Ksudra) đến tu hành tại Dâu (tỉnh Bắc Ninh) lập nên Sơn Môn Dâu vào khoảng năm 187, đến năm 189. Như vậy, Phật giáo đã có thể du nhập trực tiếp từ Ấn Độ qua đường biển đến Việt Nam trong khoảng 159 đến năm 189 sau Công nguyên, chủ yếu là dòng Nam Tông,

Phật Giáo Bắc TôngTrung Quốc cũng đến Việt Nam và dưới ảnh hưởng này, tầng lớp Tăng lữ Việt cũng đã đóng góp vào kho tàng văn hóa Phật giáo, với những nhà sư nổi tiếng như Mâu Bác Khương, Tăng Hội... Đặc biệt một thời gian dài, dưới các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần... (thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 14). Phật giáo đã phát triển đến mức cực thịnh, trở thành quốc đạo, đóng góp rất lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nhiều nhà sư đã trực tiếp tham gia công việc triều chính như các sư Khuông Việt đời Đinh và tiền Lê, Pháp Thuật đời tiền Lê, Vạn Hạnh đời Lý... Vua Lý Thái Tông cũng là một chú tiểu chùa Tiên Sơn. 

Lý Nhân Tông, Lý Thánh Tông, tuy không xuất gia nhưng tham gia hai phái Thiền Vô Ngôn ThôngThảo Đường. Đời nhà Trần Vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông đều là những nhà Phật Học lỗi lạc. Bản thân Vua Trần Nhân Tông, sau khi chiến thắng Nguyên Mông đã xuất gia sáng lập phái Thiền Trúc Lâm. Thời kỳ này, Chùa trở thành trung tâm văn hóa của làng xã, nhà sư là người hướng dẫn giáo dục về văn hóa, đạo đức, cho nhân dân.

Có thể nói rằng suốt đời Lý và hầu hết đời Trần, Phật giáo được coi là quốc giáo nên hoạt động rất sôi nổi khắp nơi. Làng nào cũng có chùa, có tháp, người ta học chữ, học kinh, hội hè, họp chợ. Hội chùa là một hoạt động văn hóa hơn là một hoạt động tôn giáo. Biết bao mối duyên lành được xe kết trong vườn chùa. Chùa làng quả đã từng một thời đóng vai trò trung tâm văn hóa tinh thần của cộng đồng làng xã, của cả nước.

Đến thế kỷ thứ 15, Nho giáo thay chân Phật giáo trong lãnh vực thượng tầng xã hội. Phật giáo từ giã cung đình nhưng vẫn vững vàng phát triển, tiến lên trong các tầng lớp nhân dân từ thành thị đến thôn quê. Đình trở thành trung tâm hành chánh của làng, nhưng chùa vẫn là niềm tinhy vọng của người dân.

Tiếp theo sau đó là các tôn giáo khác như Nho giáo, Lão giáo, Khổng giáo đã du nhập từ Trung Quốc vào Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hàng ngàn năm, nhưng Phật Giáo vẫn tiêu biểu cho nền văn hóa của dân tộc Việt Nam, người dân Việt Nam vẫn duy trì mọi sinh hoạt chùa chiền và tam tạng kinh điển của Phật giáo làm nền tảng giáo dục cho nhân dân.

* NHO GIÁO

Việt Nam trước đây có ba học thuyết tôn giáo: Nho, Phật, Đạo (Lão), thường gọi là Tam Giáo. Nho và Đạo ra đời ở Trung Quốc, từ đó trực tiếp truyền vào Việt Nam từ những ngày đầu Bắc thuộc. Nho giáo đã bắt đầu xuất hiện từ ngàn năm trước Công Nguyên nhưng chỉ đến khi có vai trò của Khổng Tử (551-478 tr, CN.) mới trở thành một hệ thống. Đó là một học thuyết đạo đức chính trị chủ trương con người sống có trách nhiệm, thương yêu con người, vì đời cứu đời, không lo nghĩ đến những chuyện không thiết thựckiếp sau, ở thế giới bên kia.

Mối quan tâm của họ là xã hội loạn ly do con ngườitham lam, chạy theo tham vọng nên sinh ra tranh dành, chiến tranh. Phương sách cứu đời của Nho giáoxây dựng một xã hội hòa mục, ổn định, giống như một gia đình êm ấm cha từ, con hiếu, anh em, vợ chồng thuận hòa, trên thương dưới và dưới nghe trên.

Trật tự trên dưới thuận hòa như vậy theo Nho giáo là biểu hiện của “Đạo” trong trời đất. Thiết lập một trật tự như vậy ở khắp nơi, trong gia đình, ngoài xã hội, giữa dân với nhà nước là phù hợp với “Đạo” đó. Trong phạm vi xã hội, trật tự trên dưới căn cứ vào họ hàng thân sơ, tuổi tác lớn nhỏ và tước vị cao thấp.

Đứng đầu mọi dẫy trật tựThiên tử, Thiên tử là con trời là chúa tể, là cha, là thầy của mọi người. Thiên tử hay Vua đối với dân cũng như cha đối với con, có trách nhiệm thương yêu, chăm lo, nuôi nấng dậy dỗ. Mà dân đối với vua cũng như con đối với cha, có trách nhiệm phục tùng biết ơn và lo báo đáp.

Làm cơ sở cho xã hội tốt đẹp là những gia đình êm ấm là làng nước có trật tự trên dưới phân minh, là quốc gia thống nhất và ngôi Vua chính thống. Vua sắp xếp cho mọi thần dân theo phân vị mà sống: Ăn mặc, nói năng, hành động, theo lễ qui định. Để đạt đến xã hội như vậy, mọi người từ Thiên tử cho đến dân thường đều phải lo tu dưỡng đạo đức. Nhà nước phải quan tâm đến việc giáo hóa cho mọi người sống theo đạo đức, nhân nghĩa, trung hiếu, lễ nhượng, yên phận, yên mệnh.

Trị nước là công việc của người làm vua, làm quan. Theo quan niệm của Nho giáo chính là công việc của người làm cha mẹ dân: Tu thân và nêu gương, yêu thương và chăm lo cho dân, giáo hóa cho dân, giữ cương thường, đạt lên hàng đầu việc dùng Đức, dùng lễ nhạc để giáo hóa chứ không phải dùng pháp luật, thưởng phạt để cưỡng chế.

Trình bày ở trên là những nội dung chủ yếu của Nho giáo, nhưng cũng chỉ là lý thuyếtlý tưởng. Trong thực tế, các nhà nước Phong kiến khi sử dụng Nho giáo để lái học thuyết này theo mục đích của mình. Nhiều Vua chúa tận dụng chiêu bài “Mệnh Trời” che đậy các tội ác đẫm máu, lợi dụng cương vị “Con trời” để chuyên chế tàn bạo, sử dụng thuyết “Yên phận, yên mệnh” để hăm người dân trong thân phận phục tùng.

Các triều đại phong kiến Việt Nam sau khi thu về trong tay cả lãnh thổ rộng lớn với nền độc lập vững vàng, đứng trước nhiệm vụ ổn định đất nước và sẵn sàng đối phó với nạn ngoại xâm (từ phương Bắc và cả phương Nam) đều có ý thức lựa chọn Nho giáo làm quốc giáo. Từ đời Lý đã lập Văn Miếu (1070) lập Quốc Tử Giám và tổ chức thi cử (1076), mở đầu cho việc trọng dụng Nho giáo, tổ chức học hành thi cử theo Nho học. Từ đó về sau, Nho học càng ngày càng phát đạt. Những người theo Nho học, đậu đạt trong các kỳ thi được giao cho nắm giữ hầu hết các chức vụ quan trọng trong chính quyền. Nhất là từ thế kỷ thứ 15, khi Nho giáo thành độc tôn, khoa thi mở đều đặn, người đi học ngày càng đông, từ kinh đô cho đến các làng, xã hẻo lánh. Nho giáo được lựa chọn vì nhu cầu của nhà nước Trung ương tập quyền và phát triển sâu rộng nhờ chế độ giáo dục và khoa cử.

Nho giáo chiếm lĩnh đời sống tinh thần. Tư tưởng Khổng, Mạnh qua kinh, truyện theo các chú giải của các nhà Nho đời Tống được sùng bái, coi là chuẩn mực của mọi tư duy, ngôn luậnhoạt động học thuật, nghệ thuật. Tuy nhiên có nhiều nhà Nho Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quí Đôn, Võ Trường Toản... đã không câu nệ, giáo điều theo lý thuyết Nho giáo.

Thái độ ít câu nệ về tư tưởng tôn giáo cũng lại biểu hiện trong nhân dân nhưng theo một cách khác. Người Việt Nam thờ cúng gia tiên, ứng xử trong các quan hệ gia đình, họ hàng làng xóm, với Vua, quan trong những chuẩn mực lễ nghĩa Nho giáo. Nhưng họ cũng thờ Phật, thờ Thần, thờ cúngđạo quán. Nói chung họ sống theo quan niệm thương người, làm việc thiện, tôn trọng kỷ cương.

Ba học thuyết tôn giáo trên đều có ảnh hưởng ít nhiều, khác nhau theo từng vùng tới các tầng lớp xã hội. Song Nho giáo bám chắc vào cơ chế chính trị xã hội, vào chế độ giáo dục khoa cử, vào tầng lớp trí thức làm chủ học thuyết, văn hóa nên có ảnh hưởng sâu sắc nhất.

Do ảnh hưởng Nho giáo, một mặt nhà nước phong kiến Việt Nam quan tâm rất sớm và rất nhiều đến việc mở mang giáo dục, chú ý đào tạo nhân tài, sưu tầm và biên soạn sử sách. Mặt khác, nhân dân vì vậy cũng trở thành hiếu học, tôn sư trọng đạo, quý trọng văn hóa. Cả hai phía góp phần làm cho Việt Nam thành nước có văn hiến sớm hơn nhiều nước khác trong vùng.

Với nền kinh tế nông nghiệp và cuộc sống định cư thành làng, Nho giáo cũng góp phần củng cố trật tự xã hội, củng cố tình làng, nghĩa xóm và khi gặp nạn nước, nhiều người vì nghĩa khí mà chiến đấu hy sinh anh hùng. Tinh thần đạo đức nhân nghĩa, hòa với truyền thống yêu quê hương, đất nước, góp phần giáo dục làm cho con người bớt tàn bạo. Mặt khác, Nho giáo cũng dạy cho con người ta thờ cúng các vị thần chính trực, bảo quốc hộ dân mà chống thờ cúng nhảm nhí.
 
* KY TÔ GIÁO:

Riêng về Ky-Tô-Giáo và Tin Lành đều thờ chung một vị giáo chủ đó là Chúa Jesu nhưng môn phái Ky Tô Giáo là đạo Công giáo thuộc toà thánh La mã, Rôma. Còn đạo Tin Lành là Ky Tô Giáo cải cách (hay còn gọi là Cơ-Đốc giáo). Đạo Tin Lành có cùng một giáo lý với Ky Tô giáo, nhận chúa Jesu là chúa cứu thếthờ phượng Đức Chúa Trời. Đạo này chỉ thờ Chúa không công nhận Đức Mẹ còn đồng trinh như bên Ky Tô Giáo, họ lý luận rằng Đức Mẹ đã sinh ra Chúa Jesu thì làm gì còn đồng trinh. Các giáo sĩ Tin Lành được quyền có vợ con. Còn các hàng giáo phẩm bên Thiên Chúa không được quyền lập gia đình. Mọi nghi lễ lại phức tạp, rườm rà hơn bên Tin Lành

Đạo Ky-Tô-Giáo từ phương tây mới du nhập vào Việt Nam, từ thế kỷ thứ 15. Năm 1533 đến năm 1614, các giáo sĩ dòng Phranxicô thuộc Bồ Đào Nha và Daminh thuộc Tây Ban Nha đã đến Việt Nam, nhưng những giáo sĩ đó chưa biết tiếng và chưa quen thông thổ nên không đạt được kết quả. 

Từ năm 1615 đến năm 1624 các giáo sĩ dòng tên (Jésuites) Bồ Đào Nha vào Việt Nam. Những giáo sĩ này nhiều người thông thạo tiếng Việt lại hoạt động khôn khéo nên chỉ một thời gian không lâu sự truyền giáo đã đạt được kết quả, lôi kéo được khá nhiều tín đồ.

Nhưng đến năm 1664 Hội Thừa Sai truyền giáo Paris (MEF) ra đời và được Giáo hoàng giao cho độc quyền truyền đạoViệt Nam. Do đó, đã gây ra mâu thuẫn hết sức gay gắt giữa các giáo sĩ dòng tên Bồ Đào Nha với giáo sĩ Hội Thừa Sai truyền giáo Paris. Các giáo sĩ Bồ Đào Nha không thừa nhận quyền điều khiển của hai giám mục người Pháp là Pallu và Lambert de la Motte (đã được Giáo Hoàng phong chức Giám Mục từ năm 1685). Họ kiện lên Giáo Hoàng nhưng không được.

Đến năm 1862, Giáo Hoàng ra lệnh cho các giáo sĩ dòng Tên rút hết khỏi Việt Nam. Từ đây việc truyền giáoViệt Nam hoàn toàn thuộc quyền Hội thừa sai truyền giáo Pháp quốc. Các Giáo sĩ Hội thừa sai truyền giáo Pháp quốc song song với việc mở mang “Nước Chúa” đồng thời phục vụ cho sự xâm lược của thực dân Pháp đến chiếm Việt Nam, biến nước Việt Nam là một thuộc địa của Pháp hàng trăm năm.

Về văn hóa do Thiên Chúa giáo du nhập từ Tây phương vào Việt Nam, nó không phù hợp với phong tục tập quán của nhân dân Á đông nói chung và Việt Nam nói riêng, thí dụ như dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống hiếu hạnh, thờ cha, cúng mẹ khi quá vãng, nhưng nếu ai đã theo đạo Thiên Chúa thì chỉ được thờ một hình của Chúa, không được thắp nhang, không được thờ cúng cha mẹ, mãi đến giữa thập niên 60, giáo hội La Mã mới cho cải cách (theo đề nghị của hàng giáo phẩm Việt Nam) bằng cách được phép thờ cúng cha mẹ với mục đích để phát triển tín đồ. Trên đây chỉ là một trong hàng trăm thí dụ khác nó trái ngược với văn hóa truyền thống dân gian Việt Nam.

* ĐẠO TIN LÀNH:

Đạo Tin Lành du nhập vào Việt Nam từ năm 1911, lúc đầu chỉ được truyền đạo từ các vùng nhượng địa của Pháp. Đến năm 1920, mới được tự do truyền giáo ở khắp các nơi trong nước. Số tín đồ của Đạo Tin Lành hiện nay có khoảng bốn trăm ngàn tín đồ. Đạo Tin Lành là Ky-Tô-Giáo cải lương (hay còn gọi là Cơ Đốc Giáo) Đạo Tin Lành có cùng một giáo lý với Ky-Tô-Giáo, nhận Chúa Jesu là Chúa cứu thế, và thờ phụng Đức Chúa Trời, Đạo này chỉ thờ Chúa không công nhận Đức Mẹ còn đồng trinh. Các Mục Sư truyền giáo được quyền lấy vợ, có gia đình.

Trong nước ta còn hai tôn giáo phát xuất từ lòng dân tộc mà ra đó là “Cao-Đài và Hòa Hảo” nhưng kinh sách cũng dựa trên căn bản giáo lý của Đức Phật để phát triển theo chiều dài của lịch sử dân tộc Việt Nam.

* ĐẠO CAO ĐÀI

Người sáng lập ra đạo này là ông Phủ Ngô Văn Chiêu, công chức ở Phú Quốc. Đạo Cao Đài còn mệnh danh là “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ”. Ra tuyên ngôn chính thức thành lập ngày 7 tháng 10 năm 1926 ở miền Nam Việt Nam. Thống Đốc Nam Kỳ phê chuẩn cho phép thành lập Đạo. Lễ ra mắt của đạo đồng thời cũng là lễ phong các chức sắc trong đạo, được tổ chức long trọng ở chùa Từ Lâm gần Tây Ninh trong 3 ngày 18-19-20 tháng 10 năm 1926, tại lễ này có toàn quyền Đông Dương, Thống Đốc Nam Kỳ tới dự. Ông Lê Văn Trung được tôn là Đức Giáo Tông (Người điều khiển chung, đứng đầu cửu Trùng Đài) có nhiệm vụ thi hành phép tắc của đạo Đức Giáo Tông có ba hàng chức sắc thuộc ba ngành Khổng Giáo, (mặc áo đỏ). Phật Giáo (mặc áo vàng) và Lão Giáo (mặc áo lam) phụ tá. Ba mầu đó tượng trưng cho ba uy tín, đức hạnh và sự bao dung của đạo. Đức Giáo Tông có ba vị chưởng pháp thuộc ngành lão giáo mặc áo trắng. Các nữ chức sắc cũng mặc áo trắng, các chức sắc Khổng giáo, Lão giáo đều có phần trách nhiệm riêng của mình như công tác nhân sự, tổ chức, nội vụ, tài chánh...

Trong Thánh Thất, hình tượng “Con mắt” là hình thiêng của đạo Cao Đài vì mắt là cửa sổ tâm hồn “Nhã Thị Chủ Tâm”, cần phải thấy được bản lãnh thể chân tâm để bước vào thiện nghiệp. Khi hành lễ, bức mành được kéo lên để lộ ra “Con Mắt” tối cao, có thắp một ngọn nến năm nén hương và đốt trầm. Gần đây đạo “Cao Đài” chia ra làm nhiều môn phái. Tín đồ theo đạo “Cao Đài” lan rộng ra cả miền Trung, Tây Nguyên và miền Bắc.

* ĐẠO HÒA HẢO:

Đạo Hòa Hảo là một tôn giáo mới ở Việt Nam, có nguồn gốc từ Đạo Phật. Giáo chủ là Huỳnh Phú Sổ, quê ở làng Hòa Hảo, huyện Tân Châu, An Giang, sáng lập ra đạo này lúc 21 tuổi (1939). Tên của Đạo lấy tên quê của Giáo Chủ. Mặt khác tên của đạo cũng nói lên tôn chỉ, mục đích hướng đến sự hoà thuận. Tuy là một tôn giáo mới, nhưng đạo Hoà Hảo đã tập hợp được nhiều tín đồ ở miền Tây Nam bộ. Nền tảng của triết lý Phật Giáo Hòa Hảolý tưởng từ bi, bác ái, đại đồngluật nhân quả của nhà Phật. Phật Giáo Hòa Hảo bài trừ những điều mê tín, dị đoan. Không sử dụng thịt, cá cúng Phật và không dùng giấy tiền, vàng bạc, phướn xá, trai đàn. Đạo Hòa Hảo không dùng hình tượng, đề cao thuyết “Phật tức Tâm” nên phương thức hành đạo giản dị.

Đạo Hòa Hảo cúng Phật bằng nước lạnh, hương (nhang) Hoa, (nước lạnh tượng trưng cho sự trong sạch, hoa tượng trưng cho sự tinh khiết còn hương để thanh trừ mọi uế tạp). Tín đồ Hoà Hảo ăn chay bốn ngày trong tháng (theo âm lịch) 14-15, 29 và 30 (nếu tháng thiếu thì lấy ngày mồng một tháng sau thay cho ngày 30). Khi tế lễ, nếu có hương thì tốt, trường hợp không có hương thì nguyện cũng được, miễn là tâm thành. Hiện tại tín đồ Hòa Hảo có khoảng trên một triệu người, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ.

Nói tóm lại Đạo Phật là “Đạo Giải Thoát” mọi khổ đau của con người, đưa con người đến “Đại Giác Ngộ” để khai mở trí tuệ và đem lòng từ bi thương chúng sinh, cứu giúp sự đau khổ của mọi người, mọi loài, mọi sinh vật trên thế gian. Dùng đủ mọi phương tiện, giáo lý, kinh điển giáo huấn cho con người tự giải thoát “Vô minh” hầu đi đến giác ngộ và đem tình thương để xoá bỏ hận thù.
 
* ĐẠO HỒI GIÁO:

Đạo Hồi du nhập vào Việt Nam khá sớm, tín đồ Hồi GiáoViệt Nam khoảng vài chục ngàn người. Hầu hết trong số họ là những người Chàm, dân tộc Khmer và một bộ phận nhỏ người gốc MaLaysia, Indonesia và Nam Ấn Độ. Phần lớn tín đồ Hồi giáo sống ở các tỉnh miền Trung và Nam Bộ. Mọi sinh hoạt của họ vẫn duy trì những nghi lễ Hồi Giáo chung như cầu kinh Koran, thờ linh vật, kiêng ăn thịt lợn (heo), trang phục khăn chít trên đầu...
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 164)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 201)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 225)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 290)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 205)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 255)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 339)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 303)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 304)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 383)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 614)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 476)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 484)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 579)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 753)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 837)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 858)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 844)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 737)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 711)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 715)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 814)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 833)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 941)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 717)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 616)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 714)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 825)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 712)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 708)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 824)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 851)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 827)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 864)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 902)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 887)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1085)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 953)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1672)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1066)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1211)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 956)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1214)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1116)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1123)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1280)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1559)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2034)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1096)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1354)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1097)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 947)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1065)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1100)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1535)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1287)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1293)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
(Xem: 1025)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant