Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Đức Bồ Tát Sumedha - Bậc Đại Trí

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 9261)
04. Đức Bồ Tát Sumedha - Bậc Đại Trí

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


ĐỨC BỒ TÁT SUMEDHA - BẬC ĐẠI TRÍ

Đức Bồ Tát Sumedha tiền thân Đức Phật Gotama sinh vào dòng dõi Bàlamôn qua bảy đời tinh khiết. Ngài theo học các bộ môn của dòng dõi Bàlamôn rất uyên thâm. Khi cha mẹ của Ngài qua đời, người quản gia gìn giữ các kho của cải đến trình cho Ngài biết rõ của cải tài sản của dòng họ tổ tiên ông bà cha mẹ để lại cho Ngài, một gia tài rất lớn lao...

Đức Bồ Tát suy xét rằng: “Tổ tiên ông bà cha mẹ suốt 7 đời của ta đã tích lũy của cải tài sản lớn lao như thế này; khi qua đời chẳng có một ai đem theo được một món nhỏ nào. Khi đến phiên ta qua đời, chắc chắn cũng không đem theo được gì. Tốt hơn! Ta nên đem bớt của cải này làm phước bố thí đến cho mọi người nghèo khổ thiếu thốn, ta sống tại gia tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật”.

Một hôm, Đức Bồ Tát ngồi một mình trên lâu đài suy tư rằng:

“Sự nóng của lửa tham, lửa sân, lửa si... hiện hữu; còn Niết Bàn tịch tịnh dập tắt được lửa tham, lửa sân, lửa si... cũng hiện hữu.

Sự khổ đế của danh pháp, sắc pháp trong tam giới hiện hữu; còn sự an lạc tuyệt đối của Niết Bàn Siêu tam giới cũng hiện hữu.

Sự tái sinh là khổ, sự già là khổ, sự bệnh là khổ, sự chết là khổ... vẫn hiện hữu; vậy ta nên mong muốn chứng ngộ Niết Bànpháp không sanh, không già, không bệnh, không chết... pháp giải thoát mọi cảnh khổ”.

Đức Bồ Tát suy xét rằng: “Đời sống tại gia có nhiều nhiêu khê phiền toái, bị ràng buộc... Tốt hơn, ta nên từ bỏ nhà xuất gia trở thành đạo sĩ”.

Để thực hiện ý định, Đức Bồ Tát cho người đi truyền rao khắp nơi gần xa dân chúng trong nước, ai cần của cải gì, thì hãy đến tự tiện lấy. Đức Bồ Tát Sumedha từ bỏ nhà, đi vào rừng núi Himavanta xuất gia trở thành Đạo sĩ. Đức vua trời Sakka, cõi Tam Thập Tam Thiên biết ý nguyện của Đức Bồ Tát, nên truyền lệnh cho vị thiên nam hiện xuống cõi người, hóa ra một cốc lá dưới chân núi Himavanta để cúng dường Đức Bồ Tát ĐạoSumedha. Ban đầu, Đức Bồ Tát Đạonương nhờ sống nơi cốc lá rất hài lòng. Về sau, Đức Bồ Tát Đạosuy xét kỹ thấy cốc lá có 8 điều bất lợi, còn nương nhờ sống dưới cội cây có 10 điều thuận lợi. Thế là, Đức Bồ Tát Đạotừ bỏ cốc lá để đến nương nhờ sống dưới cội cây hành đạo.

Mỗi buổi sáng, Đạo sĩ Sumedha mang bát vào xóm nhà để khất thực, sau khi thọ thực xong, Ngài trở về ngồi dưới cội cây suy xét rằng:

Người ta phải làm lụng vất vả cực nhọc lắm mới có được vật thực này. Vậy, từ nay ta nên lượm nhặt những trái cây rụng để ăn sống qua ngày; ta chớ nên sống dể duôi, tinh tấn hành pháp hành thiền định, ngăn oai nghi nằm, ta chỉ thọ trì 3 oai nghi: đi, đứngngồi mà thôi”.

Đạo sĩ Sumedha tinh tấn tiến hành thiền định, trong vòng 7 ngày đã chứng đắc 4 bậc thiền hữu sắc, 4 bậc thiền vô sắcchứng đắc ngũ thông tam giới (thần túc thông, nhãn thông, nhĩ thông, tha tâm thôngtúc mạng thông) an hưởng sự an lạc trong khi nhập thiền (Jhānasamāpatti) không hề hay biết rằng Đức Phật Dīpaṅkara đã xuất hiện trên thế gian.

Một hôm, Đạo sĩ Sumedha du hành bay trên hư không, nhìn thấy dân chúng xứ Rammavati đang vui mừng hoan hỷ sửa sang con đường. Muốn biết do nguyên nhân nào khiến người ta làm việc một cách hoan hỷ như vậy, Đạo sĩ liền đáp xuống bèn hỏi những người ấy rằng:

- Thưa quý bà con, quý bà con sửa sang con đường này để cho ai đi, mà thấy quý bà con vui mừng hoan hỷ đến như thế?

- Kính thưa Ngài Đạo sĩ Sumedha, Đức Phật Dīpaṅkara cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng sinh đã xuất hiện trên thế gian rồi, chúng tôi đang sửa sang con đường này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh Arahán sẽ ngự qua con đường này.

Đạo sĩ Sumedha vừa lắng nghe danh từ “Buddha” (Đức Phật) tâm vô cùng hoan hỷ, suy nghĩ: “Đức Phật xuất hiện trên thế gian là một điều hiếm có, thật vô cùng hi hữu. Ta nên cố gắng gieo phước thiện, tạo duyên lành nơi Đức Phật”. Vị Đạo sĩ liền thưa với bà con rằng:

- Thưa quý bà con, quý bà con sửa sang con đường này để đón rước Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn vị Thánh Arahán ngự đến; xin quý bà con nhường cho bần đạo một đoạn đường, để bần đạo cùng sửa sang, đón rước Đức Phật cùng chư Thánh Arahán.

Dân chúng biết Đạo sĩ có nhiều oai lực thần thông, nên họ chỉ đoạn đường bùn lầy khó khăn. Đạo sĩ nghĩ rằng: “Nếu ta dùng phép thần thông để sửa đoạn đường này thì quá dễ, phước thiện ta được sẽ không nhiều. Vậy, ta nên tự dùng sức mình để sửa sang, thì chắc chắn ta được phước thiện nhiều hơn”. Đức Bồ Tát dùng sức của chính mình lấy đất từ nơi khác đến để san bằng, công việc sửa đoạn đường còn độ một sải tay nữa là hoàn thành.

Khi ấy, nghe mọi người reo hò vui mừng đón Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh Arahán sắp đến. Đức Bồ Tát Sumedha quyết định rằng: “Hôm nay ta xin cúng dường sinh mạng của ta đến Đức Phật Dīpaṅkara, bằng cách nằm sấp trên đoạn đường còn lại. Nguyện lấy tấm thân này làm như một chiếc cầu, để cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư Thánh Arahán ngự đi qua. Chắc chắn ta sẽ được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài”.

Nguyện ước của Đức Bồ Tát Sumedha

Đức Bồ Tát Sumedha suy tư rằng: “Hôm nay, nếu ta từ bỏ ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì chắc chắn ta sẽ trở thành một bậc Thánh Arahán trong giáo pháp của Đức Phật Dīpaṅkara, rồi sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sanh luân hồi trong tam giới chỉ một mình ta; nhưng còn bao nhiêu chúng sinh khác vẫn đang chìm đắm trong biển khổ tử sinh luân hồi. Ta không đành giải thóat khổ riêng một mình ta ”. Nghĩ vậy, với tâm đại bi vô lượng thương xót chúng sinh, nên Đức Bồ Tát Sumedha phát nguyện rằng:

“Buddho bodheyyaṃ...”Khi ta tự mình chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác rồi, khi ấy ta sẽ thuyết pháp giáo hóa chúng sinh cũng chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán y theo ta vậy (tự giác - giác tha).

“Mutto moceyyaṃ...”Khi ta tự mình giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn rồi, khi ấy, ta sẽ dẫn dắt chúng sinh cùng giải thoát khỏi mọi sự ràng buộc của tham ái, phiền não, chứng ngộ Niết Bàn y theo ta vậy (tự độ - tự tha).

“Tinno tareyyaṃ...”Khi ta tự mình vượt qua được biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc rồi, khi ấy, ta sẽ cứu vớt, dẫn dắt chúng sinh cùng vượt qua biển khổ tử sinh luân hồi, đạt đến Niết Bàn an lạc y theo ta vậy (tự đáo - đáo tha).

Trong khi đó có một nữ Bàlamôn tên là Sumittā(là tiền kiếp của công chúa Yasodhara)trên tay cầm 8 đóa hoa sen để cúng dường Đức Phật Dīpaṅkara, khi nhìn thấy Đạo sĩ Sumedha nằm sấp lấy thân mình làm chiếc cầu trên đoạn đường ấy, cô liền phát sinh đức tin trong sạch, kính dâng đến vị Đạo sĩ 5 đóa hoa sen, còn 3 đóa hoa sen để lại cho mình. Đạo sĩ Sumedha nằm sấp, hai tay cầm 5 đóa hoa sen để trên trán. Khi ấy, Đức Phật Dīpaṅkara cùng 400 ngàn chư vị Thánh Arahán ngự đi ngang qua bằng phép thần thông một cách nhẹ nhàng trên tấm thân của Đạo sĩ Sumedha; cho nên, sinh mạng của Đức Bồ Tát vẫn an toàn, chẳng hề gì cả.

Thường Đức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên chỉ thọ ký cho Đức Bồ Tát nào có đầy đủ 8 điều kiện như sau:

Đức Bồ Tát cần có đầy đủ 8 điều kiện để được thọ ký lần đầu tiên

- Loài người thật (không phải Long vương hoặc chư thiên hóa thành người).

- Người nam thật (không phải là ái nam, ái nữ).

- Kiếp hiện tại có đầy đủ pháp hạnh ba-la-mật có thê chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán.

- Trực tiếp đến hầu Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

- Bậc xuất gia Đạo sĩchánh kiến về nghiệp.

- Chứng đắc đầy đủ 4 bậc thiền hữu sắc và 4 bậc thiền vô sắc, chứng đắc ngũ thông tam giới.

- Quyết định cúng dường sinh mạng đến Đức Phật.

- Ý nguyện vững chắc, không thoái chí nản lòng, quyết tâm trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Đức Phật Dīpaṅkara ngự đứng phía trên đầu của Đức Bồ Tát ĐạoSumedha, bằng trí tuệ thấy rõ, biết rõ trong thời vị lai (anāgataṃsañāṇa) quán xét ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác của Đạo sĩ Sumedhathành tựu hay không. Sau khi thấy rõ, biết rõ chắc chắn sẽ thành tựu, nên Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn lại rằng:

Trong thời vị lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, Đạo sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệuĐức Phật Gotama”.

Đức Phật DīpaṅkaraĐức Phật Chánh Đẳng Giác đầu tiên thọ ký cho Đức Bồ Tát Sumedha tiền kiếp của Đức Phật Gotama.

Đức Bồ Tát Sumedha đương nhiên trở thành Đức Bồ Tát cố định (Niyatabodhisatta) chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, trong thời vị lai. Khi Đức Bồ Tát lắng nghe lời thọ ký xác định thời gian của Đức Phật Dīpaṅkara, tâm vô cùng hoan hỷ. Tất cả nhân loại, chư thiên, chư phạm thiên đồng hoan hỷ chắp tay lễ bái Đức Bồ Tát Đạo sĩ, tán dương ca tụng rằng:

Đạo sĩ Sumedha chắc chắn sẽ là mầm móng trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai”.

Thời gian hoàn thành 30 pháp hạnh ba-la-mật

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama thuộc Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác (Sammāsamboddhisatta) trí tuệ ưu việt (paññādhika) hơn đức tintinh tấn; cho nên, thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất là khoảng thời gian bằng nửa thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giácđức tin ưu việt và bằng một phần tư thời gian của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctinh tấn ưu việt.

Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giáctrí tuệ ưu việt cần phải hoàn thành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật: 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường, 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung và 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng. Trong khoảng thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, kể từ khi Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký đầu tiên cho đến Đức Phật Kassapa thứ 24 thọ ký cuối cùng, đến kiếp chót là kiếp Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha.

Những lộ trình tâm có mục đích cuối cùng

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã trải qua cuộc hành trình bằng lộ trình tâm (vithicitta) từ sát-na tâm này qua sát-na tâm khác, sinh rồi diệt diễn tiến không ngừng từ lộ trình tâm này qua lộ trình tâm khác, từ kiếp sống này qua kiếp sống khác kế tiếp nhau trên con đường thẳng dài theo thời gian, nhưng mục đích cuối cùng. Để tạo cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, kể từ thời kỳ Đức Bồ Tát phát nguyện ở trong tâmý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ cứu vớt chúng sinh trong biển khổ tử sinh luân hồi. Đức Bồ Tát đã tạo những pháp hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 7 a-tăng-kỳ. Tiếp đến thời kỳ Đức Bồ Tát phát nguyện bằng lời nói để cho mọi chúng sinh hiểu biết được ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác của mình. Đức Bồ Tát đã tạo những pháp hạnh ba-la-mật trong khoảng thời gian suốt 9 a-tăng-kỳ. Và tiếp đến thời kỳ được Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký Đức Bồ Tát Đạo sĩ Sumedha xác định thời gian còn lại là 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệuĐức Phật Gotama.

Trong suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất ấy, Đức Bồ Tát cố gắng tinh tấn không ngừng, bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật. Trong khoảng thời gian ấy có 24 Đức Phật Chánh Đẳng Giác tuần tự xuất hiện trên thế gian, mỗi Đức Phật Chánh Đẳng Giác đều thọ ký Đức Bồ Tát xác định thời gian còn lại sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệu Đức Phật Gotama.

Như vậy, Đức Phật Gotama là quả của 30 pháp hạnh ba-la-mật, do đã tạo và tích lũy từ vô số-vô số tiền kiếp trong quá khứ, sự liên hệ từ kiếp này đến kiếp khác qua các lộ trình tâm sinh rồi diệt, có mục đích cuối cùng, mà mỗi tâm trong lộ trình tâm đều có phận sự tích lũy nghiệp. Cho nên, sự liên hệ từ kiếp này qua kiếp khác, hoặc từ kiếp quá khứ qua kiếp hiện tại, hoàn toàn không phải liên hệ phần thân của mỗi kiếp, mà là sự liên hệ phần tâm của mỗi kiếp, vì tâm có phận sự tích lũy nghiệp (thiện nghiệpbất thiện nghiệp). Khi thiện nghiệp 30 pháp hạnh ba-la-mật cho quả, kiếp chót Đức Bồ Tát Siddhattha có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại nhân, và 80 tướng tốt phụ. Ngài xuất gia chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác. Và khi ác nghiệp cho quả, thì Đức Phật phải chịu quả xấu như khi bị nàng Ciñcāmānavikā vu oan, quả xấu như khi bị Tỳ-khưu Devadatta lăn đá rơi xuống làm bầm đầu ngón chân cái, v.v... Những lộ trình tâm diễn tiến trong suốt cuộc đời của Đức Phật, cho đến Niết Bàn lộ trình tâm (Parinibbānavīthicitta) cuối cùng, chấm dứt không còn tái sinh kiếp sau nữa. Đó là khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Còn các chúng sinh khác không có phát nguyện trở thành bậc Thánh Arahán, thì những lộ trình tâm không có mục đích cuối cùng, kế tiếp nhau trên con đường vòng tròn. Cho nên, sự tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loàivô cùng, vô tận, vô chung.

Tâm đại bi vô lượng của Đức Bồ Tát Sumedha

Đức Bồ Tát ĐạoSumedha, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, biết rõ rằng: Hễ còn tái sinh là còn Khổ đế. Tái sinh trong ba giới bốn loài đều là Khổ đế, không có sự an lạc thật sự, mà chỉ có Khổ đếsự thật chân lý.

Ngay trong kiếp Đức Bồ Tát ĐạoSumedha đón rước Đức Phật Dīpaṅkara, Ngài đã có đủ khả năng ba-la-mật để trở thành bậc Thánh Arahán cùng với Tứ Tuệ Phân Tích, Lục thông trong giáo pháp của Đức Phật Dīpaṅkara. Cuối cùng trong kiếp ấy sẽ tịch diệt Niết Bàn, hoàn toàn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Nhưng với tâm đại bi vô lượng của Đức Bồ Tát ĐạoSumedha, đối với chúng sinh đang đắm chìm trong biển khổ tử sinh luân hồi, nên Đức Bồ Tát Đạo sĩ không đành giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi cho riêng mình; mà Ngài có ý nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để thuyết pháp tế độ, cứu vớt chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi. Cho nên, Đức Bồ Tát Đạochấp nhận chịu đựng kéo dài tử sinh luân hồi thêm khoảng thời gian dài 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, để tiếp tục bổ sung cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, hầu mong chứng đắc thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác để thuyết pháp tế độ chúng sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

- Chúng sinh ấy là ai?

- Chúng sinh ấy chính là chúng ta đây!

Đức Phật có tâm đại bi thương xót chúng ta, Ngài thuyết pháp chỉ dẫn cho chúng ta con đường giải thoát khổ tử sinh luân hồi, con đường duy nhất giải thoát khổ ấy là: Pháp hành Trung Đạo, hoặc Pháp hành Tứ Niệm Xứ, hoặc Pháp hành Thiền Tuệ, hoặc Pháp hành Bát Chánh Đạo dẫn dắt đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo - 4 Thánh QuảNiết Bàn, giải thoát khỏi tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Hành 30 pháp hạnh ba-la-mật

Ba-la-mật nghĩa là gì?

Ba-la-mật là dịch âm từ Pāḷi: Pāramī.

Pāramī có rất nhiều nghĩa, nghĩa chính yếu là: Pháp duyên chính dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn cao thượng.

Điều kiện thành tựu pháp hạnh ba-la-mật: Mỗi khi tạo pháp hạnh ba-la-mật nào, phải là thiện tâm hoàn toàn trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não nhất là tham ái (taṇhā), ngã mạn (māna), tà kiến (diṭṭhi) và đồng thời hợp với tâm đại bi (mahākaruṇā)trí tuệ hướng đến chứng ngộ Niết Bàn (upāyakosallañāṇā). Khi hội đầy đủ các điều kiện trên, thì mới thành tựu được pháp hạnh ba-la-mật ấy.

* Pháp hạnh ba-la-mật có 10 loại

Bố thí ba-la-mật (dānapāramī)
Giữ giới ba-la-mật
(sīlapāramī)
Xuất gia ba-la-mật (nekkhammapāramī)
Trí tuệ ba-la-mật
(paññāpāramī)
Tinh tấn ba-la-mật
(vīriyapāramī)
Nhẫn nại ba-la-mật
(khantipāramī)
Chân thật ba-la-mật
(saccapāramī)
Chí nguyện ba-la-mật
(adhiṭṭhānapāramī)
Tâm từ ba-la-mật
(mettāpāramī)
Tâm xả ba-la-mật (upekkhāpāramī)

* Pháp hạnh ba-la-mật có 3 bậc

- 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thường: Hành 10 pháp ba-la-mật bậc thường này không liên quan đến những bộ phận trong thân thể và sinh mạng của mình; hy sinh những gì thuộc bên ngoài.

Ví dụ: Của cải, tài sản, ngôi báu, vợ, con v.v...

- 10pháp hạnh ba-la-mật bậc trung: Hành 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc trung này không liên quan đến sinh mạng của mình; hy sinh những bộ phận trong thân thể của mình.

Ví dụ: Mắt, tay, chân, thận v.v...

- 10pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng: Hành 10 pháp hạnh ba-la-mật bậc thượng này liên quan đến hy sinh sinh mạng của mình, khi đang còn sống.

Ví dụ: Khi hy sinh sinh mạng của mình vì một mục đích cao thượng.

Sau khi, Đức Bồ Tát Sumedha tiền thân của Đức Phật Gotama, được Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, trong khoảng thời gian này Đức Bồ Tát cần phải bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật, để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Trong lịch sử Đức Bồ Tát tiền thân của Đức Phật Gotama, có những kiếp Đức Bồ Tát tạo ba-la-mật ở cõi người, khi hết tuổi thọ, do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm thiên nam trong cõi trời dục giới. Đức Bồ Tát không chịu hưởng sự an lạccõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ, mà Ngài nguyện từ bỏ kiếp thiên nam ở cõi trời ấy; do thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong cõi người, để thuận lợi cho việc tạo nhiều pháp hạnh ba-la-mật. Cho nên, cõi người là cõi rất đặc biệt hơn các cõi khác như:

- Thuận lợi cho việc thực hành phạm hạnh cao thượng.

- Thuận lợi cho việc tạo mọi thiện pháp: Dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện phápđặc biệt Siêu tam giới thiện pháp.

- Thuận lợi cho việc tạo 30 pháp hạnh ba-la-mật.

- Chư Phật Chánh Đẳng Giác, Chư Phật Độc Giác, chư Thánh Tối Thượng Thanh Văn Giác, chư Thánh Đại Thanh Văn Giác đều xuất hiện tại cõi người này.

Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama bổ sung 30 pháp hạnh ba-la-mật suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, được 24 Đức Phật Chánh Đẳng Giác thọ ký, và trải qua vô số-vô số kiếp không sao kể xiết được, cho đến khi đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật. Đến kiếp áp chót Đức Bồ Tát tái sinh làm thiên nam có tên Setaketucõi trời Tusita (Đẩu Suất Đà Thiên) cõi trời thứ 4 trong 6 cõi trời dục giới, nghỉ ngơi hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3498)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4525)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4579)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7353)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2972)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12221)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4000)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3814)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4230)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3691)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5072)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6696)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4013)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4130)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5346)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3793)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4540)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3562)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3935)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4397)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5397)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3849)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3942)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3880)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4832)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4531)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4272)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3845)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4648)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4214)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6121)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4613)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4957)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4198)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4834)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5673)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3657)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4054)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4596)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5293)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3151)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4768)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4564)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4303)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4751)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4499)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4609)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7233)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5217)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5011)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4601)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5621)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5282)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4165)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6024)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4723)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4886)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5495)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5626)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant