Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

04. Điều Giới Tránh Xa Sự Nói Dối

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 8263)
04. Điều Giới Tránh Xa Sự Nói Dối

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển III:
Hành Giới

PHẦN I: GIỚI CỦA NGƯỜI TẠI GIA


Ngũ Giới Là Thường Giới (Pañcasīla Niccasīla)

4-  Điều Giới Tránh Xa Sự Nói Dối  

Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.

* Nghĩa phân tích chữ:

─ Musāvāda = Musā + vāda

Musā: Chuyện dối trá, điều không thật, vật không có thật…

Vāda: Lời nói.

Ví dụ: Mình biết chuyện ấy mà nói không biết; mình không biết chuyện ấy mà nói biết,… như vậy “chuyện ấy” là chuyện musā: Lừa dối. Mình có tiền mà nói không có tiền; mình không có tiền mà nói có tiền,… như vậy “tiền” là vật musā: Lừa dối. Như vậy, musā không phải trực tiếp bằng lời nói.

─ Veramaṇisikkhāpadaṃ = Veramaṇī + sikkhāpadaṃ

Veramaṇī: Tác ý tránh xa.

Sikkhāpadaṃ: Điều giới, giới.

─ Samādiyāmi: Con xin thọ trì.

Người ta nói điều không thật, vật không có… với tác ý bất thiện (tác ý ác) nói là thật, là có gọi là nói dối (musāvāda) cốt để làm cho người khác hiểu lầm.

Sự nói dối này phát sinh phần nhiều bằng lời nói; và đôi khi cũng phát sinh ở thân bằng cử động lắc đầu phủ định, gật đầu khẳng định… dù vậy, vẫn gọi là nói dối (musāvāda).

* Nghĩa tổng hợp:

Con xin thọ trì điều giới, có tác ý tránh xa sự nói dối.

Chi Pháp Phạm Điều Giới Nói Dối

Người phạm điều giới nói dối cần phải hợp đủ 4 chi pháp:

1- Điều không thật, vật không có (atthavatthu).

2- Tâm nghĩ lừa dối (visaṃvādanacittatā).

3- Cố gắng lừa dối bằng lời nói hoặc bằng thân cử động theo tâm nghĩ lừa dối của mình (payoga).

4- Người nghe tin theo sự lừa dối ấy (tadattha vijānanaṃ).

Nếu hội đầy đủ 4 chi pháp này, thì gọi là phạm điều giới nói dối. Nếu thiếu 1 trong 4 chi, thì không thể gọi là phạm điều giới nói dối.

Giảng Giải Về Sự Nói Dối

* Những điều không thật như:

Điều mình không thấy, nói tôi thấy.

Điều mình không nghe, nói tôi nghe.

Điều mình không tiếp xúc, nói tôi tiếp xúc.

Điều mình không biết, nói tôi biết.

Điều mình thấy, nói tôi không thấy.

Điều mình nghe, nói tôi không nghe.

Điều mình tiếp xúc, nói tôi không tiếp xúc.

Điều mình biết, nói tôi không biết.

* Những vật không có như:

- Vật ấy mình không có, nói tôi có.

- Vật ấy mình có, nói tôi không có, v.v…

Tâm nghĩ lừa dối người nghe: Có 2 trường hợp.

1- Tâm nghĩ lừa dối người nghe, nhưng không gây thiệt hại đến người tin theo, thì chỉ là lừa dối mà không phạm điều giới nói dối, không cho quả tái sinh trong cõi ác giới.

2- Tâm nghĩ lừa dối người nghe, để gây thiệt hại đến người tin theo, thì thật là lừa dối, cho nên phạm điều giới nói dối, cho quả tái sinh trong cõi ác giới.

Sự cố gắng lừa dối bằng lời nói hoặc bằng thân cử động: Có 4 cách.

1- Tự mình cố gắng lừa dối bằng lời nói dối hoặc bằng thân cử động lắc đầu phủ định điều có thật, hoặc gật đầu khẳng định điều không có thật.

2- Sai khiến người khác lừa dối bằng khẩu hoặc bằng thân.

3- Viết chuyện không thật trên báo, trong thư, nói trên đài phát thanh,… lan truyền ra làm cho độc giả, thính giả,… tin theo.

4- Viết sách nội dung không có thật, ghi âm thanh vào băng đĩa,… có tính cách lâu dài, để lừa dối độc giả, thính giả tin theo.

Người có tâm ác lừa dối người khác, nếu người khác tin theo sự lừa dối của mình, thì người ấy tạo ác nghiệp nói dối, hội đầy đủ 4 chi pháp phạm điều giới nói dối. Nhưng nếu người khác không tin theo sự lừa dối ấy, thì người ấy không đủ chi, không phạm điều giới nói dối.

Tội Nặng - Tội Nhẹ Của Sự Nói Dối

Người phạm điều giới nói dối phạm tội nặng hoặc tội nhẹ căn cứ vào sự thiệt hại nhiều hoặc ít đến cho người tin theo sự nói dối ấy.

- Nếu người phạm điều giới nói dối đã gây ra sự thiệt hại nhiều đến cho người tin theo sự nói dối, thì người nói dối ấy phạm tội nặng, có thể cho quả tái sinh trong cõi ác giới.

- Nếu người phạm điều giới nói dối không gây ra sự thiệt hại nào đáng kể đến cho người tin theo sự nói dối, thì người nói dối ấy phạm tội nhẹ, không thể cho quả tái sinh trong cõi ác giới.

Tính Chất Của Sự Nói Dối

* Đối với người tại gia cư sĩcận sự nam, cận sự nữ:

Nói dối là 1 giới cấm trong ngũ giới, trong bát giới, trong cửu giới,… mà người tại gia nói chung cần phải giữ gìn cho được trong sạch, thì được nhiều phước thiện cao quý. Ngược lại, nếu người nào phạm đến giới nói dối, thì người ấy phải chịu phạm tội nặng hoặc nhẹ tùy theo sự thiệt hại đã gây ra đối với người tin theo sự lừa dối ấy. Ngay trong kiếp hiện tại người ấy bị mất uy tín đối với mọi người; nếu phạm tội nặng, thì ác nghiệp ấy có thể cho quả tái sinh trong cõi ác giới trong những kiếp vị lai.

 

* Đối với bậc xuất gia là Sadi hoặc Tỳ khưu:

- Đối với vị Sadi:

Sự nói dối là 1 giới cấm trong 10 giới của Sadi; nếu vị Sadi nào phạm điều giới nói dối, thì vị Sadi ấy bị hư hỏng phạm hạnh, không còn là vị Sadi nữa.

Nếu vị Sadi ấy biết mình không còn phạm hạnh Sadi nữa, thì nên biết phục hồi phạm hạnh Sadi trở lại, bằng cách tìm đến vị Thầy tế độ hoặc vị Đại đức Tỳ khưu, đảnh lễ Ngài, xin Ngài hướng dẫn phép quy y Tam Bảo. Khi vị ấy thọ phép quy y Tam Bảo đến lần thứ ba xong, ngay khi ấy, vị ấy trở thành vị Sadi trở lại như trước.

- Đối với vị Tỳ khưu:

Phạm điều giới nói dối có nhiều mức độ nhẹ - nặng khác nhau.

Trong khi hành Tăng sự tụng giới bổn của Tỳ khưu (Bhikkhupātimokkha) một vị Tỳ khưu luật sư tụng xong mỗi phần giới, hỏi nhóm Tỳ khưu hội họp tại Sīmā đều trong sạch phải không?

+ Nếu vị Tỳ khưu nào có giới không trong sạch, mà vẫn ngồi im lặng, không nói, đó cũng là một cách lừa dối, thì vị Tỳ khưu ấy phạm điều giới dukkaṭa (tác ác).

+ Nếu vị Tỳ khưu nào nói lời không đúng sự thật, thì vị Tỳ khưu ấy phạm điều giới pācittiya (đối trị).

+ Nếu vị Tỳ khưu nào nói lời vu khống vị Tỳ khưu khác phạm điều giới Pārājika (Bất cộng trụ), thì vị Tỳ khưu ấy bị phạm điều giới Saṃghādisesa (Tăng tàn).

+ Nếu vị Tỳ khưu nào tự nói khoe khoang pháp của bậc Thánh Nhân như chứng đắc thiền định, phép thần thông; chứng đắc Thánh Đạo - Thánh QuảNiết Bàn mà chính mình không có, thì vị Tỳ khưu ấy bị phạm điều giới Pārājika (Bất cộng trụ) không còn phạm hạnh Tỳ khưu nữa.

Đối với vị Tỳ khưu phạm điều giới nói dối có nhiều mức độ nhẹ - nặng khác nhau, tùy theo lời nói dối.

Nói Dối, Lừa Dối Vô Tội

Người nói dối bằng khẩu hoặc lừa dối bằng thân, nhưng không gây ra sự thiệt hại nào đến cho người tin theo lời nói dối, sự lừa dối ấy; thậm chí còn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho người tin theo lời nói dối, sự lừa dối ấy; thì người ấy không có tội, mà còn có phước thiện lớn nữa.

* Như câu chuyện vị quan cận thần thân tín tâu với Đức vua, được tóm lược như sau:

Một đôi vợ chồng trẻ nghèo khổ sống trong túp lều nhỏ ngoại thành. Lần đầu tiên, người vợ mang thai nghén, lại sinh chứng lạ thường là thèm ăn đồ ăn của Đức vua; nếu nàng không được ăn món vật thực thèm muốn ấy, thì nàng không thể sống được. Người chồng quá thương vợ, thương con, muốn bảo vệ vợ và con, nên người chồng liền tìm cách cứu vợ và con. Người chồng giả làm một vị Tỳ khưu, biết đến giờ Đức vua sắp độ vật thực, vị Tỳ khưu giả mang bát đi vào trong cung điện của Đức vua để khất thực, với hành vi cử chỉ đi chậm rãi từng bước - từng bước thật đáng kính.

Đức vua nhìn thấy vị Tỳ khưu ấy, liền phát sinh đức tin mà nghĩ rằng: “Vị Tỳ khưu kia chắc không phải là vị Tỳ khưu tầm thường, Ngài là bậc có pháp đặc biệt nào đó”, nên Đức vua truyền lệnh cho các quan thỉnh vị Tỳ khưu ấy vào trong cung điện, rồi Đức vua cung kính để bát những món ăn của mình đến vị Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu giả ấy im lặng chậm rãi từng bước - từng bước ra khỏi cung điện.

Đức vua truyền gọi một vị quan cận thần thân tín, có trí tuệ, theo dõi xem vị Đại đức ấy ở nơi nào, rồi trở về tâu cho Đức vua biết rõ.

Vị quan cận thần đi sau theo dõi vị Tỳ khưu ấy, mà vị Tỳ khưu giả ấy chẳng hề hay biết gì; khi đi ra khỏi thành về đến túp lều nhỏ, vị Tỳ khưu cởi bỏ y ra, rồi mặc bộ đồ người tại gia, ôm bát đồ ăn của Đức vua trao cho người vợ đang mang thai nghén ăn. Vị quan cận thần đã theo dõi mọi hành vi cử chỉ của vị Tỳ khưu giả từ đầu đến cuối, nên biết rõ rằng: “Người ấy không phải là Tỳ khưu, mà chỉ giả làm Tỳ khưu với một ý đồ của y mà thôi. Khi trở về, nếu ta tâu lên Đức vua những điều đã trông thấy đúng theo sự thật, thì chắc chắn sẽ đem lại những hậu quả không tốt cho cả hai bên: ‘Đức vua sẽ mất đức tin, còn người lừa bịp giả làm Tỳ khưu kia sẽ phải chịu tội tử hình’. Vậy ta nên tâu lên Đức vua với lời lẽ thật khéo léo, để đem lại sự lợi ích cho cả hai bên”.

Nghĩ vậy, vị quan cận thần thân tíntrí tuệ đến chầu Đức vua bèn bạch rằng:

─ Muôn tâu bệ hạ, thừa lệnh bệ hạ, hạ thần đã đi theo dõi sát vị Đại đức ấy; sau khi ra khỏi thành đến một nơi, thì hình ảnh tấm y vàng ấy biến mất khỏi tầm mắt của hạ thần, và từ đó hạ thần không còn nhìn thấy hình dáng vị Đại đức ấy nữa.

Đức vua nghe vị quan tâu xong, liền phát sinh tâm thiện vô cùng hoan hỷ, truyền bảo rằng:

Bậc Đại đức ấy chắc là bậc Thánh Arahán, hôm nay sự bố thí cúng dường của ta thật cao thượng.

Qua câu chuyện trên, vị quan cận thần thân tíntrí tuệ tâu với lời lẽ không đúng về sự thật, Đức vua đã tin theo rồi hiểu sai sự thật, nhưng không gây ra sự thiệt hại; mà lại làm cho phát sinh sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc cho Đức vua. Như vậy, vị quan cận thần ấy, tuy phạm điều giới nói dối, nhưng không có tội; cho nên không thể cho quả tái sinh trong cõi ác giới.

* Chuyện tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Bồ Tát Pañcāvudhakumāra([5]) bị Dạ xoa tên Silesaloma bắt để ăn thịt. Đức Bồ Tát Pañcāvudhakumāra bảo Dạ xoa rằng:

─ Này Dạ xoa, trong thân của ta có khí giới, nếu ngươi ăn thịt ta, thì khí giới của ta sẽ sát hại sinh mạng của ngươi luôn.

Dạ xoa nghe Đức Bồ Tát nói như vậy, tin theo lời của Đức Bồ Tát, nên Dạ xoa không dám ăn thịt, mà thả Đức Bồ Tát trở về.

Đức Bồ Tát Pañcāvudhakumāra nói trong thân của mình có vũ khí, danh từ khí giới mà Đức Bồ Tát sử dụng ở đây là khí giới trí tuệ (ñāṇāvudha), nhưng Dạ xoa lại tin và hiểu rằng khí giới ở đây là khí giới sát hại.

Đức Bồ Tát nói lời lẽ khó hiểu, tuy Dạ xoa tin theo và hiểu sai, nhưng không gây ra sự thiệt hại đến cho Dạ xoa. Như vậy, tuy Đức Bồ Tát nói như vậy nhưng không có tội.

* Chuyện tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Bồ Tát khỉ chúa([6]) sống trong rừng. Một hôm con cá sấu bò lên bờ gặp khỉ chúa, nói dối lừa gạt khỉ chúa rằng:

─ Này chú khỉ, bờ sông bên kia có nhiều thứ trái cây ngon, nếu chú muốn qua bên đó thì chú lên ngồi trên lưng tôi, tôi sẽ chở chú qua bên kia.

Con khỉ chúa tin theo lời của cá sấu leo lên ngồi trên lưng; cá sấu bơi ra giữa dòng sông định lặn xuống, thì khỉ chúa bèn hỏi rằng:

─ Này anh cá sấu, anh định cho tôi chìm trong nước để được sự lợi ích gì cho anh?

Cá sấu nói thật rằng:

─ Này chú khỉ, tôi nói dối lừa gạt chú để ăn trái tim của chú.

Khỉ chúa bảo rằng:

─ Này anh cá sấu, trái tim của tôi không có trong thân này, tôi đã gỡ trái tim ra và đem treo lủng lẳng trên cành cây kia kìa.

Vừa nói, khỉ chúa vừa đưa tay chỉ cho cá sấu thấy chùm trái cây gần bờ sông và bảo tiếp với cá sấu rằng:

─ Nếu anh muốn ăn trái tim, thì anh chở tôi vào lại bờ cây kia.

Cá sấu nghe vậy tin theo lời của Đức Bồ Tát khỉ chúa, bơi vào gần bờ, Đức Bồ Tát khỉ chúa liền nhảy lên cành cây, sinh mạng được an toàn.

Như vậy, Đức Bồ Tát khỉ chúa nói dối lừa gạt cá sấu, nhưng không gây sự thiệt hại nào đến cá sấu. Cho nên, tuy Đức Bồ Tát khỉ chúa nói dối nhưng không có tội.

* Một người làm cử chỉ đuổi chim, bằng cách giả làm bộ ném một vật gì, hoặc giương cung mà không có mũi tên ra hăm dọa… làm cho chim tưởng ném thật, hoặc bắn thật, chúng hoảng sợ bay đi…

Đó là hành vi cử chỉ lừa dối bằng thân, nhưng không gây ra sự tai hại nào đến đối tượng bị lừa dối. Cho nên, sự lừa dối ấy vô tội.

Như vậy, nói dối bằng lời nói, hoặc lừa dối bằng thân, mà không gây ra sự thiệt hại nào đến cho người tin theo, đều là vô tội, không thể cho quả tái sinh trong cõi ác giới.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3501)
Có những bài tán nghe qua là hiểu liền nội dung; nhưng cũng có những bài tán rất khó hiểu, không biết lý do vì sao? Trong đó có bài tán “Chiên Đàn” là một.
(Xem: 7358)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4527)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4582)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7360)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2974)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12229)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 4006)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3815)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4234)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3703)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5076)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6700)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4016)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4136)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5351)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3794)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4545)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3563)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3938)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4401)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5398)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3850)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3946)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3881)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4833)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4535)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4273)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3848)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4650)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4218)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6122)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4617)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4958)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4200)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4840)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5675)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3662)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4058)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4599)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5295)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3152)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4769)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4566)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4306)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4753)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4505)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4611)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7237)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5220)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5012)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4605)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5627)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5284)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4167)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6026)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4724)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4888)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5497)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5632)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant