Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Đức Phật Với Đại Cội Bồ Đề

01 Tháng Mười Một 201200:00(Xem: 7648)
15. Đức Phật Với Đại Cội Bồ Đề

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

Quyển I:
Tam Bảo

CHƯƠNG I: BA NGÔI CAO CẢ (TIYAGGA)


ĐỨC PHẬT VỚI ĐẠI CỘI BỒ ĐỀ


Tích chuyện tiền kiếp Kaliṅgabodhijātaka

Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông Phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthi, Ngài thuyết giảng tích tiền kiếp Kaliṅgabodhi (bộ Chú giải Jataka) trong đoạn đầu được tóm lược như sau:

Khi Đức Phật ngự tại ngôi chùa Jetavana cùng với chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng đông đảo, đến khi Đức Phật du hành đến nơi khác, thì chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng cùng đi theo Ngài. Lúc ấy, ngôi chùa Jetavana trở nên trống vắng, không còn một vị nào ở trong chùa cả. Những người cận sự nam, cận sự nữ mang những phẩm vật đến chùa, không thấy Đức Phật và cũng không thấy một Đại đức Tỳ-khưu nào cả. Họ không biết dâng lễ cúng dường đến nơi nào, nên họ phải đành đem đến đặt trước cốc Gandhakuṭi của Đức Phật, rồi họ thui thủi trở về nhà, mà không phát sinh tâm hoan hỷ.

Được biết như vậy, ông phú hộ Anāthapiṇḍika chờ đợi khi Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng ngự trở lại ngôi chùa Jetavana. Ông phú hộ liền đến gặp đảnh lễ Ngài Đại đức Ānanda và bạch cho Ngài biết rằng:

- Kính bạch Ngài, mỗi khi Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng ngự đi du hành đến nơi khác, tại ngôi chùa này trở nên trống vắng. Các người cận sự nam, cận sự nữ đem những phẩm vật đến dâng lễ cúng dường mà không thấy vị nào cả. Họ đành phải đem những phẩm vật đặt trước cửa cốc Gandhakuṭi của Đức Phật, rồi thui thủi trở về nhà, mà không phát sinh tâm hoan hỷ.

Kính bạch Ngài, con kính nhờ Ngài bạch lại với Đức Phật rằng: Đối với các hàng Phật tử còn có nơi nào khác, để dâng lễ cúng dường nữa hay không?”.

Nhận lời thỉnh cầu của ông phú hộ, Ngài Đại đức Ānanda đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, cetiya là nơi dâng lễ cúng dường có bao nhiêu nơi? Bạch Ngài.

- Này Ānanda, cetiya nơi dâng lễ cúng dường có ba nơi.

- Kính bạch Đức Thế Tôn, ba nơi ấy là những nơi nào? Bạch Ngài.

- Này Ānanda: Ba nơi ấy là:

Sāriraka cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá lợi của Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Paribhoga cetiya: Cetiya nơi mà Đức Phật đã sử dụng như Đại cội Bồ đề, những thứ vật dụng của Đức Phật đã dùng.

Uddissaka cetiya: Cetiya nơi mà người Phật tử tạo nên tượng Đức Phật, ngôi Bảo tháp v.v... để tôn thờ.

Ngài Đại đức Ānanda bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn còn tại thế gian, ba nơi cetiya ấy, các hàng Phật tử có thể dâng lễ cúng dường được hay không? Bạch Ngài.

- Này Ānanda, Sāriraka cetiya: Cetiya nơi tôn thờ Xá lợi của Đức Phật Chánh Đẳng Giác, thì khi nào Như Lai tịch diệt Niết Bàn rồi, khi ấy, các hàng Phật tử mới có thể dâng lễ cúng dường cetiya, nơi tôn thờ Xá lợi Đức Phật.

Này Ānanda, còn Paribhoga cetiya và Uddissaka cetiya, thì ngay khi Như Lai còn tại thế, các hàng Phật tử cũng có thể dâng lễ cúng dường đến hai nơi cetiya ấy.

Này Ānanda, Đại cội Bồ đề được gọi là Paribhoga cetiya, nơi mà Chư Phật sử dụng làm nơi ngồi ngự dưới Đại cội Bồ đề, để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Lắng nghe Đức Phật dạy như vậy, Ngài Đại đức Ānanda bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn du hành ngự đến nơi khác, chư Đại đức Tỳ-khưu Tăng cũng đi theo Ngài, tại ngôi chùa Jetavana này trở nên trống vắng. Các người cận sự nam, cận sự nữ mang những phẩm vật đến ngôi chùa này, họ không thấy một ai cả, nên không có nơi nào, để họ dâng lễ cúng dường.

Kính bạch Đức Thế Tôn, như vậy, con có thể thỉnh hạt giống Bồ đề từ Đại cội Bồ đề ở khu rừng Uruvela, đem về gieo trồng tại ngôi chùa Jetavana này, để cho các hàng Phật tử làm cetiya nơi dâng lễ cúng dường, có nên hay không? Bạch Ngài.

Đức Phật hoan hỷ truyền dạy rằng:

- Sādhu! Ānanda ropehi.

- Này Ānanda, tốt lắm! Con hãy nên gieo trồng cây Bồ đề tại ngôi chùa này.

Evaṃ sante Jetavane mama nibaddhavāso viya bhavissati.

Như vậy, khi có cây Bồ đề trong ngôi chùa Jetavana, cũng như là sự thường trú của Như Lai.

Sau khi lắng nghe Đức Phật truyền dạy như vậy, Đại đức Ānanda loan báo cho ông phú hộ Anāthapiṇ-ḍika, bà đại thí chủ Visākhā, Đức vua Pasenadi Kosala, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi rằng sẽ trồng cây Bồ đề tại ngôi chùa Jetavana, xin cho người đào lỗ để trồng cây Bồ đề.

Khi ấy, Ngài Đại đức Ānanda đến gặp Ngài Đại đức Mahāmoggallāna và bạch rằng:

- Kính bạch Đại đức, đệ muốn trồng một cây Bồ đề tại ngôi chùa Jetavana, kính thỉnh pháp huynh đến Đại cội Bồ đề tại khu rừng Uruvela, thỉnh một hạt giống Bồ đề đem về cho đệ.

Ngài Đại đức Mahāmoggallāna nhận lời, liền dùng phép thần thông bay đến khu rừng Uruvela, bay xung quanh Đại cội Bồ đề, để tìm hạt Bồ đề nào già chín, sắp lìa khỏi cành. Ngài dùng tấm y hứng hạt giống Bồ đề, không để rơi xuống mặt đất, thỉnh đem về trao cho Ngài Đại đức Ānanda. Ngài Đại đức Ānanda đón nhận hạt giống Bồ đề bằng cái đĩa vàng một cách cung kính.

Tiếp đến, Ngài Đại đức Ānanda loan báo cho Đức vua Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi tụ hội để làm lễ trồng cây Bồ đề. Khi mọi người đã tụ hội đông đủ tại ngôi chùa Jetavana; đầu tiên, Đại đức Ānanda thỉnh cái đĩa vàng có đựng hạt giống Bồ đề trao cho Đức vua Pasenadi Kosala, để gieo trồng cây Bồ đề. Đức vua cung kính đón nhận từ tay của Ngài Đại đức Ānandasuy nghĩ rằng: Ta tuy là Vua, nhưng người xứng đáng để gieo trồng cây Bồ đề này phải là ông phú hộ Anāthapiṇḍika. Nghĩ vậy, Đức vua liền trao cái đĩa đựng hạt giống Bồ đề lại cho ông phú hộ; ông phú hộ cung kính đón nhận từ tay của Đức vua. Tiếp theo, ông phú hộ rải phân bón xuống lỗ, rồi hai tay cung kính bưng cái đĩa vàng đựng hạt giống Bồ đề gieo xuống lỗ và phủ một lớp đất lên mặt.

Lúc ấy, mọi người đông đảo đều nhìn thấy, một điều thật là phi thường, chưa từng có bao giờ! Ngay khi vừa gieo xong, liền mọc lên một cây Bồ đề cao 50 hắc tay (cùi tay), có 5 nhánh, mỗi nhánh tỏa dài 50 hắc tay, trở thành một Đại cội Bồ đề to lớn, mà tất cả bốn phương, tám hướng đều nhìn thấy rõ.

Đức vua Pasenadi Kosala liền dâng cúng dường 18 đóa hoa sen, tưới nước trong sạch vào gốc cây, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ đều vô cùng hoan hỷ, lần lượt dâng lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề một cách cung kính.

Xung quanh Đại cội Bồ đề được xây bốn bức thành hàng rào và cổng ra vào bằng các loại đá rất quý; phần nền gần gốc cây Bồ đề được lót bằng một loại đá quý, để làm nơi dâng lễ cúng dường của các hàng Phật tử.

Ngài Đại đức Ānanda vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đã trồng Đại cội Bồ đề xong, kính thỉnh Đức Thế Tôn ngự đến sử dụng Đại cội Bồ đề. Khi Đức Thế Tôn sử dụng Đại cội Bồ đề, để cho chúng con được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Theo sự thỉnh cầu của Ngài Đại đức Ānanda, Đức Thế Tôn ngự đến sử dụng Đại cội Bồ đề nhập Arahán Quả suốt đêm.

Ngài Đại đức Ānanda loan báo cho Đức vua Pasenadi Kosala, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà đại thí chủ Visākhā, cùng toàn thể các cận sự nam, cận sự nữ trong kinh thành Sāvatthi tụ hội tại Đại cội Bồ đề, để làm đại lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề. Do đó, Đại cội Bồ đề có tên gọi là:

Ānanda bodhi: Đại cội Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda”.

Đại cội Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, tại nền ngôi chùa cổ Jetavana, tỉnh Sāvatthi, xứ Ấn Độ.

Đối với các hàng Phật tử là bậc xuất gia, cũng như hàng tại giacận sự nam, cận sự nữ phải hết lòng tôn kính cây Bồ đề, bởi vì, khi chúng ta tôn kính cây Bồ đề là như tôn kính Đức Phật vậy. Cho nên, tại mỗi Đại cội Bồ đề là một nơi tôn nghiêm, mà mỗi người Phật tử phải có bổn phận chăm sóc bảo tồn, thường xuyên quét dọn lau chùi sạch sẽ và thường đến lễ bái, dâng lễ cúng dường Đại cội Bồ đề như lễ bái dâng lễ cúng dường Đức Phật vậy.

 

TƯỢNG ĐỨC PHẬT (BUDDHARUPA)

- Tượng Đức Phật có từ thời kỳ nào?

- Xuất hiện lần đầu tiên ở đâu?

Sở dĩ có câu hỏi này, là vì qua các thời kỳ kết tập Tam TạngChú giải Pāḷi từ lần thứ nhất cho đến lần thứ tư. Trong đó, dạy người Phật tử là bậc xuất gia Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni và các hàng tại giacận sự nam, cận sự nữ phải nên tôn kính Đại cội Bồ đề như tôn kính Đức Phật, không nên chặt cành có tính chất phá hoại cây Bồ đề. Hằng ngày, người Phật tử có phận sự chăm sóc, quét dọn sạch sẽ xung quanh Đại cội Bồ đề, là một nơi tôn nghiêm, xứng đáng là nơi dâng lễ cúng dường đối với Phật tửđức tin nơi Tam Bảo.

Thời kỳ Đức vua Asoka (Phật lịch 218), Đức vua là một Đấng Minh Quânđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, hộ độ trong kỳ kết tập Tam TạngChú giải Pāḷi lần thứ ba tại chùa Asokārāma xứ Pāṭiliputta.

Vào năm Phật lịch 236, Đức vua hộ độ phái đoàn gồm 5 vị Đại đức, do Ngài Đại đức Mahinda (là bậc Thánh Arahan, thái tử của đức vua Asoka)làm trưởng đoàn, đi sang Đảo quốc Srilankā để truyền bá Phật giáo. Vào thời kỳ ấy, Đức vua Devanampiyatissa trị vì Đảo quốc Srilankā, là bạn thân thiết của Đức vua Asoka. Đức vua Devanampiyatissa cùng các quan trong triều, dân chúng hân hoan đón rước phái đoàn chư Đại đức Tăng rất trọng thể.

Phái đoàn chư Đại đức Tăng thuyết pháp truyền bá giáo pháp của Đức Phật, Đức vua cùng các quan trong triều và dân chúng phần đông phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có số xin phép xuất gia trở thành Tỳ-khưu, có số xin thọ phép quy y Tam Bảo, trở thành người cận sự nam, cận sự nữ đã quy y Tam Bảo cho đến trọn đời. Ngoài ra còn có số cận sự nữ muốn xuất gia trở thành Tỳ-khưu ni; do đó, Ngài Đại đức Mahinda cho người trở về tâu với Đức vua Asoka gửi phái đoàn chư Đại đức Tỳ-khưu ni sang Đảo quốc Srilankā.

Cung nghinh cây Bồ đề sang Đảo quốc Srilankā

Đức vua Asoka chấp thuận gửi phái đoàn chư Đại đức Tỳ-khưu ni, do Đại đức Tỳ-khưu ni Saṃghamittā (là bậc Thánh Arahan, là công chúa của đức vua Asoka)làm trưởng đoàn, phái đoàn có cung nghinh một cây Bồ đề sang trồng trên Đảo quốc Srilankā.

Đức vua Asoka làm lễ tiễn đưa cây Bồ đề rất long trọng, Đức vua truyền lệnh sứ giả sang trước, để tâu lên Đức vua Devanampiyatissa cũng làm lễ đón rước cây Bồ đề cho trọng thể.

Thật vậy, Đức vua Devanampiyatissa cùng các quan trong triều và rất đông đảo dân chúng đứng chờ sẵn ở bến thuyền. Khi thuyền của phái đoàn chư Đại đức Tỳ-khưu ni tăng cùng với cây Bồ đề vừa cập bến, chính Đức vua Devanampiyatissa đến cung nghinh cây Bồ đề từ trên tay của chư Đại đức Tỳ-khưu ni và cùng đón rước phái đoàn chư Đại đức Tỳ-khưu ni lên Đảo quốc Srilankā.

Như vậy, thời ấy chỉ có cây Bồ đề được đưa sang trồng trên Đảo quốc Srilankā, mà không đề cập đến tượng của Đức Phật.

Do đó, tượng Đức Phật có từ thời kỳ nào? Thật khó mà xác định chính xác, song do căn cứ của một vài sử liệu cho rằng:

- Tượng Đức Phật có từ thời kỳ Phật lịch thế kỷ thứ VI, do các nhà nghệ thuật người Karika có đức tin theo Phật giáo, trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc miền Bắc Ấn Độ thời xưa.

Những nhà nghệ thuật này tư duy rằng:

- Phái Bàlamôn có các tượng thần linh để họ dâng lễ cúng dường, thì Phật giáo cũng nên có tượng Đức Phật để làm nơi lễ bái, dâng lễ cúng dường. Do đó, các nhà nghệ thuật điêu khắc này học hỏi, nghiên cứu về 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ của Đức Phật làm cơ bản, làm nền tảng để họ sáng tạo nên tượng Đức Phật đầu tiên.

Một sử liệu khác cho rằng:

- Tượng Đức Phật đầu tiên có vào khoảng thời gian Phật lịch 700, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn; do các nhà nghệ thuật điêu khắc, tạo hình trong xứ Gandharaṭṭha, thuộc miền Bắc Ấn Độ thời xưa.

Tượng Đức Phậtphù hợp với Phật giáo hay không?

Tượng Đức Phật thuộc trong Uddissaka cetiya: Cetiya nơi mà người tạo nên tượng Đức Phật, ngôi Tháp Bảo v.v... để tôn thờ, lễ bái cúng dường... cho nên, tượng Đức Phật phù hợp với Phật giáo.


BIỂU TƯỢNG CỦA PHẬT GIÁO

* Đại cội Bồ đề là một biểu tượng đặc biệt nhất của Phật giáo, bởi vì Đức Bồ Tát Siddhattha đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác tại dưới Đại cội Bồ đề. Đó là cây Đại cội Bồ đề của Đức Phật Gotama. Người Phật tử lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề cũng như lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đức Phật. (như trong tích chuyện: “Cây Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda”).

* Bánh xe Chuyển Pháp Luân gồm có 12 căm là sự luân chuyển của Tam Tuệ Luân: Trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành trong Tứ Thánh Đế (3 x 4 = 12) là phần cốt lõi của Phật giáo. Cho nên, bánh xe Chuyển Pháp Luân cũng là biểu tượng của Phật giáo.

Hai biểu tượng này, nếu người Phật tử nào có sự hiểu biết Phật Pháp sâu sắc, thì mới có thể nhận thức, biết được tính chất cao thượng của biểu tượng.

Tượng Đức Phật là một biểu tượng Phật giáo

Tượng Đức Phật cũng là một biểu tượng đặc biệt trong Phật giáo, tượng Đức Phật là một hình ảnh rất sống động, gần gũi với con người nhất, con người rất dễ cảm nhận, rất dễ gây những ấn tượng sâu sắc nhất. Cho nên, tượng Đức Phật là một biểu tượng, một hình ảnh dễ liên tưởng đến Đức Phật, là ngôi cao cả nhất mà các hàng Phật tử hết lòng thành kính lễ bái cúng dường

Tượng Đức Phật theo mỹ thuật của mỗi dân tộc

Đức Phật dạy: Một Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát ấy có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là lời dạy của Đức Phật, mà hình ảnh tiêu biểu thì hoàn toàn không có; cho nên, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình theo óc tưởng tượng của mình, dựa theo nền mỹ thuật của dân tộc mình để sáng tạo tượng Đức Phật.

Trong quá khứ, tất cả các nhà nghệ thuật đầu tiên điêu khắc tượng Đức Phật, không có một ai nhìn thấy kim thân của Đức Phật bao giờ. Mỗi nhà nghệ thuật, có một quan niệm riêng về cái đẹp và khả năng thẩm mỹ đều khác nhau. Mặc dù họ đã học hỏi nghiên cứu về 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ của Đức Phật, nhưng óc tưởng tượng của mỗi nhà nghệ thuật mang cá tính và tinh thần của dân tộc mình. Vì vậy, tượng Đức Phật Gotama được tạo ra qua mỗi thời kỳ, mỗi dân tộc, bởi mỗi nhà nghệ thuật có hình dáng hoàn toàn không giống hệt nhau. Tuy nhiên, cũng có một vài đường nét và tính chất chung, tương đối giống nhau; cho nên, khi mọi người Phật tử nhìn thấy tượng thờ, thì có thể nhận biết được đó là tượng Đức Phật Gotama. Do đó họ liền liên tưởng đến Đức Phật có 9 Ân đức cao thượng, nên phát sinh đức tin trong sạch, tỏ lòng tôn kính, lễ bái, dâng lễ cúng dường một cách cung kính.

Lễ bái cúng dường tượng Đức Phật như thế nào?

Tượng Đức Phật dù làm bằng chất liệu gì, làm bằng xi măng cốt sắt, hoặc bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng hoặc bằng đá quý, hoặc bằng gỗ quý; thậm chí tượng Đức Phật bằng giấy, dù nhỏ, dù lớn v.v..., thì người Phật tử cũng không phải lễ bái cúng dường nơi tượng Đức Phật xi măng cốt sắt, hoặc tượng Đức Phật đồng, tượng Đức Phật bạc, tượng Đức Phật vàng, hoặc tượng Đức Phật đá quý, hoặc tượng Đức Phật gỗ quý, hoặc tượng Đức Phật giấy v.v... Thật ra, người Phật tử khi nhìn thấy, chiêm ngưỡng tượng Đức Phật ấy, cần phải liên tưởng đến 9 Ân đức Phật, cho nên khi lễ báilễ bái đến 9 Ân đức Phật, khi cúng dườngcúng dường đến 9 Ân đức Phật, khi niệm Phật là niệm đến 9 Ân đức Phật v.v...

Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng bên ngoài, để liên tưởng đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình. Do đó, tượng Đức Phật tạo nên bằng chất liệu gì, hình dáng, tư thế... khác nhau như thế nào, cũng chỉ là đối tượng hình thức bên ngoài mà thôi. Khi người Phật tử chiêm bái, cung kính đảnh lễ, dâng lễ cúng dường... nơi tượng Đức Phật, thì phải luôn luôn tâm niệm đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình.

Tuy nhiên, hình dáng, tư thế tượng Đức Phật cũng có tác động đến tư tưởng, tình cảm của người Phật tử. Cho nên, thời xưaxứ Ấn Độ, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình tượng Đức Phật trong tư thế ngồi đang Chuyển Pháp Luân, phía dưới Bồ đoàn, ở giữa có bánh xe Chuyển Pháp Luân, hai bên có 2 con nainhóm 5 Tỳ-khưu. Đó là một hình ảnh rất sống động, gợi lại cho người Phật tử một ấn tượng về quá khứ, lần đầu tiên Đức Phật thuyết bài Kinh Chuyển Pháp Luân tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana; để tế độ nhòm 5 Tỳ-khưu: Ngài Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.

Khi người Phật tử nào chiêm ngưỡng tượng Đức Phật trong tư thế Chuyển Pháp Luân, diễn tả lại bối cảnh lịch sử đầu tiên trong Phật giáo, người Phật tử ấy dễ dàng phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, mà quên những điều ưu phiền trong đời, tâm được thanh tịnh an lạc.

Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng giúp cho người Phật tử phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, chính nhờ đức tin này sẽ làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh và tăng trưởng từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp đến Siêu tam giới thiện pháp, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.


BIỂU TƯỢNG CỦA PHẬT GIÁO

* Đại cội Bồ đề là một biểu tượng đặc biệt nhất của Phật giáo, bởi vì Đức Bồ Tát Siddhattha đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác tại dưới Đại cội Bồ đề. Đó là cây Đại cội Bồ đề của Đức Phật Gotama. Người Phật tử lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đại cội Bồ đề cũng như lễ bái, dâng lễ cúng dường đến Đức Phật. (như trong tích chuyện: “Cây Bồ đề của Ngài Đại đức Ānanda”).

* Bánh xe Chuyển Pháp Luân gồm có 12 căm là sự luân chuyển của Tam Tuệ Luân: Trí tuệ học, trí tuệ hành, trí tuệ thành trong Tứ Thánh Đế (3 x 4 = 12) là phần cốt lõi của Phật giáo. Cho nên, bánh xe Chuyển Pháp Luân cũng là biểu tượng của Phật giáo.

Hai biểu tượng này, nếu người Phật tử nào có sự hiểu biết Phật Pháp sâu sắc, thì mới có thể nhận thức, biết được tính chất cao thượng của biểu tượng.

Tượng Đức Phật là một biểu tượng Phật giáo

Tượng Đức Phật cũng là một biểu tượng đặc biệt trong Phật giáo, tượng Đức Phật là một hình ảnh rất sống động, gần gũi với con người nhất, con người rất dễ cảm nhận, rất dễ gây những ấn tượng sâu sắc nhất. Cho nên, tượng Đức Phật là một biểu tượng, một hình ảnh dễ liên tưởng đến Đức Phật, là ngôi cao cả nhất mà các hàng Phật tử hết lòng thành kính lễ bái cúng dường

Tượng Đức Phật theo mỹ thuật của mỗi dân tộc

Đức Phật dạy: Một Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác kiếp chót, chắc chắn sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát ấy có đầy đủ 32 tướng tốt chính của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ. Đó là lời dạy của Đức Phật, mà hình ảnh tiêu biểu thì hoàn toàn không có; cho nên, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình theo óc tưởng tượng của mình, dựa theo nền mỹ thuật của dân tộc mình để sáng tạo tượng Đức Phật.

Trong quá khứ, tất cả các nhà nghệ thuật đầu tiên điêu khắc tượng Đức Phật, không có một ai nhìn thấy kim thân của Đức Phật bao giờ. Mỗi nhà nghệ thuật, có một quan niệm riêng về cái đẹp và khả năng thẩm mỹ đều khác nhau. Mặc dù họ đã học hỏi nghiên cứu về 32 tướng tốt chính và 80 tướng tốt phụ của Đức Phật, nhưng óc tưởng tượng của mỗi nhà nghệ thuật mang cá tính và tinh thần của dân tộc mình. Vì vậy, tượng Đức Phật Gotama được tạo ra qua mỗi thời kỳ, mỗi dân tộc, bởi mỗi nhà nghệ thuật có hình dáng hoàn toàn không giống hệt nhau. Tuy nhiên, cũng có một vài đường nét và tính chất chung, tương đối giống nhau; cho nên, khi mọi người Phật tử nhìn thấy tượng thờ, thì có thể nhận biết được đó là tượng Đức Phật Gotama. Do đó họ liền liên tưởng đến Đức Phật có 9 Ân đức cao thượng, nên phát sinh đức tin trong sạch, tỏ lòng tôn kính, lễ bái, dâng lễ cúng dường một cách cung kính.

Lễ bái cúng dường tượng Đức Phật như thế nào?

Tượng Đức Phật dù làm bằng chất liệu gì, làm bằng xi măng cốt sắt, hoặc bằng đồng, bằng bạc, bằng vàng hoặc bằng đá quý, hoặc bằng gỗ quý; thậm chí tượng Đức Phật bằng giấy, dù nhỏ, dù lớn v.v..., thì người Phật tử cũng không phải lễ bái cúng dường nơi tượng Đức Phật xi măng cốt sắt, hoặc tượng Đức Phật đồng, tượng Đức Phật bạc, tượng Đức Phật vàng, hoặc tượng Đức Phật đá quý, hoặc tượng Đức Phật gỗ quý , hoặc tượng Đức Phật giấy v.v... Thật ra, người Phật tử khi nhìn thấy, chiêm ngưỡng tượng Đức Phật ấy, cần phải liên tưởng đến 9 Ân đức Phật, cho nên khi lễ báilễ bái đến 9 Ân đức Phật, khi cúng dườngcúng dường đến 9 Ân đức Phật, khi niệm Phật là niệm đến 9 Ân đức Phật v.v...

Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng bên ngoài, để liên tưởng đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình. Do đó, tượng Đức Phật tạo nên bằng chất liệu gì, hình dáng, tư thế... khác nhau như thế nào, cũng chỉ là đối tượng hình thức bên ngoài mà thôi. Khi người Phật tử chiêm bái, cung kính đảnh lễ, dâng lễ cúng dường... nơi tượng Đức Phật, thì phải luôn luôn tâm niệm đến 9 Ân đức Phật bên trong thiện tâm của mình.

Tuy nhiên, hình dáng, tư thế tượng Đức Phật cũng có tác động đến tư tưởng, tình cảm của người Phật tử. Cho nên, thời xưaxứ Ấn Độ, các nhà nghệ thuật điêu khắc tạo hình tượng Đức Phật trong tư thế ngồi đang Chuyển Pháp Luân, phía dưới Bồ đoàn, ở giữa có bánh xe Chuyển Pháp Luân, hai bên có 2 con nainhóm 5 Tỳ-khưu. Đó là một hình ảnh rất sống động, gợi lại cho người Phật tử một ấn tượng về quá khứ, lần đầu tiên Đức Phật thuyết bài Kinh Chuyển Pháp Luân tại khu rừng phóng sinh nai gọi là Isipatana; để tế độ nhòm 5 Tỳ-khưu: Ngài Koṇḍañña, Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài Mahānāma và Ngài Assaji.

Khi người Phật tử nào chiêm ngưỡng tượng Đức Phật trong tư thế Chuyển Pháp Luân, diễn tả lại bối cảnh lịch sử đầu tiên trong Phật giáo, người Phật tử ấy dễ dàng phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, mà quên những điều ưu phiền trong đời, tâm được thanh tịnh an lạc.

Như vậy, tượng Đức Phật là đối tượng giúp cho người Phật tử phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, chính nhờ đức tin này sẽ làm nền tảng cho mọi thiện pháp phát sinh và tăng trưởng từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp đến Siêu tam giới thiện pháp, đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7355)
“Thừa Tự”, theo quan niệm phong kiến xưa, có nghĩa là thọ hưởng của “hương hỏa” với trách nhiệm nối dõi việc thờ cúng Tổ tiên.
(Xem: 4521)
Nhà nghiên cứu phật học K.SCHMIDT1 đã có lần nêu lên những điểm tương đồng giữa tri thức luận của Kant và của Phật học,
(Xem: 4574)
Theo đức Phật, vũ trụ không có khởi nguyên, không có tận cùng và khoảng không vũ trụ vốn vô tận, gồm vô số thế giới như cát sông Hằng (Gangânadivâlukopama).
(Xem: 7341)
Phàm tất cả vạn pháp, vạn hữu trong vũ trụ được sanh ra và có mặt trên thế gian này đều có nguyên nhân, nguyên do đầu mối của nó.
(Xem: 2965)
Chữ khám phá ở đây rất chính xác. Không có sự truyền giáo của đạo Phật đến người Tây phương. Và, tuy người Âu châu khám phá đạo Phật rất trễ, nhưng đó là sự khám phá vô cùng lý thú.
(Xem: 12220)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3996)
“Nguyên nhân hình thành Phật giáo Đại Thừa” là một đề tài có phạm trù không rộng lắm, nên ít có người khảo sát và nguồn tư liệu về nó cũng rất hạn chế.
(Xem: 3807)
Những gợi ý dưới đây có thể giúp chúng ta lĩnh hội được ý nghĩa thâm sâu, khó hiểu của kinh một cách hiệu quả, đồng thời giữ gìn sự trung thực với nội dung của ý kinh.
(Xem: 4225)
Giải thoát nghĩa là cởi mở những dây ràng buộc mình vào một hoàn cảnh đau khổ nghịch ý.
(Xem: 3686)
Trong hệ thống kinh tạng Đại thừa, Pháp Hoa là một trong những bộ kinh quan trọng và phổ biến nhất.
(Xem: 5064)
Niết-bàn (Nirvana, Nibbana) là khái niệm của Phật giáo, một tôn giáo không công nhận và không thừa nhậnThượng Đế, có thần, có linh hồn trường cửu.
(Xem: 6688)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4011)
Tôi ngồi đây lắng nghe quý thầy cô tụng bài kinh Bát Nhã thật hay. Ví như ngài Huyền Trang ngày xưa tuyển dịch nhiều bài Tâm kinh như thế này để ...
(Xem: 4126)
Như Lai ngài đã du hành Đạo lộ tối thắng vượt trên các ca tụng Nhưng với tâm tôn kínhhoan hỷ Tôi sẽ ca tụng Đấng vượt trên ca tụng.
(Xem: 5339)
Quy nghĩa là “quay về, trở về” hay “hồi chuyển (tâm ý)”. Y là “nương tựa”. Quy Y cũng có nghĩa là “Kính vâng” hay “Phục tùng”. Tam là chỉ ba ngôi Phật, Pháp, Tăng.
(Xem: 3789)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni vốn là Thái tử “dưới một người, trên vạn người”, thế nhưng Ngài đã lìa xa tất cả
(Xem: 4533)
Từ xưa đến nay, hàng xuất gia (Sa-môn, Bà-la-môn) tu hành không trực tiếp lao động sản xuất để tạo ra của cải vật chất nên đời sống phụ thuộc vào sự bố thí, cung cấp, cúng dường của hàng tín đồ tại gia.
(Xem: 3552)
Sống chếtvấn đề lớn nhất của đời người. Trong đạo Phật, chữ sanh tử (sống chết) là một từ được nhắc đến thuộc loại nhiều nhất
(Xem: 3934)
Kinh Kim Cang Bát Nhã được ngài Cưu Ma La Thập (344-413) dịch từ tiếng Phạn sang Hán văn, và được thái tử Chiêu Minh (499-529) chia bố cục ra 32 chương.
(Xem: 4392)
Đức Phật xuất hiện trên thế gian như mặt trời phá tan màn đêm u tối. Giáo pháp của Ngài đã mang lại những giá trị phổ quát cho...
(Xem: 5396)
Khái niệm Niết-Bàn không phải là sản phẩm bắt nguồn từ Phật Giáo, mà nó đã xuất hiện từ thời cổ đại Ấn Độ khoảng hơn 4,000 năm trước Tây Lịch.
(Xem: 3844)
Quán Thế Âm tiếng Sanskrit là Avalokitésvara. Thuật ngữ Avalokitésvara vốn bắt nguồn từ hai chữ Avalokita và isvara
(Xem: 3941)
Trong khi thế giới đang có nhiều biến động phức tạp, chiến tranh, khủng bố, thù hận diễn ra khắp nơi, mâu thuẩn chính trị, kinh tế, và văn hóa luôn là vấn đề nan giải.
(Xem: 3876)
Trong cõi đời, chúng ta phải chịu đựng những sự đau đớn, khổ não nơi thân và tâm, nhưng tâm bệnh có thể được chữa khỏi bằng Phật pháp.
(Xem: 4828)
Thiên Trúc (天竺) là tên mà người Trung Quốc thường gọi cho Ấn Độ cổ đại. Nó cũng được dịch “Trung tâm của cõi trời”, (nghĩa là trung tâm tinh thần);
(Xem: 4527)
Thông thường hai chữ tu hành đi đôi với nhau; sử dụng quá quen nên hiểu một cách chung chung, đã giảm tầm mức quan trọng mà tự thân nó mang một ý nghĩa sâu sắc.
(Xem: 4261)
Đã hơn 2500 năm kể từ khi Đức Phật Thích Ca đã nhập Niết Bàn. Hiện tại chúng ta sống trong thời đại gọi là “Mạt Pháp”, trong đó ta không thể nào thấy Đức Phật thực sự được nữa.
(Xem: 3832)
Pháp thân của chư Phật, là muốn nhấn mạnh đến loại pháp thân không còn ẩn tàng trong thân ngũ uẩn như pháp thân của chúng sinh.
(Xem: 4638)
Giáo lý Tam thân (trikāya), như đã được tất cả các tông phái Phật giáo Đại thừaTrung QuốcNhật Bản chấp nhận hiện nay
(Xem: 4210)
Ngày xưa chúng đệ tử của Đức Phật có nhiều hạng người khác nhau. Tùy theo căn cơ của mỗi người, Đức Phật áp dụng phương pháp giáo hóa khác nhau.
(Xem: 6115)
Ngày nay, chúng ta thấy hầu hết các ảnh, tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đều được tạo hình có tóc, điều này khiến
(Xem: 4611)
“Chiếc đồng hồ của tôi không đánh số 1 đến 12 mà chỉ có ‘now’, ‘now’, ‘now’ để nhắc nhở rằng ta đang sống”,
(Xem: 4952)
Trong tác phẩm Jataka, truyện số 238 đã đề cập về chuyện một chữ (ekapadaṃ) nhưng có nhiều nghĩa (anekatthapadassitaṃ).
(Xem: 4194)
Về tiểu sửcông nghiệp của Huyền Trang (602-664) chúng ta đã có phần viết riêng trong phần phụ lục của sách Kinh Phật
(Xem: 4826)
Đã sanh làm kiếp con người, có ai mà không khổ? Cái khổ nó theo mình từ nhỏ đến khi khôn lớn, và sẽ khổ hoài cho tới...
(Xem: 5671)
Khi Bồ-tát Long Thọ nói “bất sanh bất diệt” thì hẳn nhiên trước đó phải có cái gì đó có sanh và diệt.
(Xem: 3653)
Trong nghĩa đơn giản nhất, tu Hạnh Bồ Tát là những người ra sức hoằng pháp và không muốn Chánh pháp bị đoạn đứt, bất kể người này có thọ giới Bồ Tát hay không.
(Xem: 4042)
Bài viết này sẽ khảo sát về Vô Tướng Tam Muội, một pháp môn ít được chú ý hiện nay.
(Xem: 4591)
Cứ mỗi lần chúng ta chứng kiến người thân qua đời là mỗi lần chúng ta đau xót, buồn rầu, vì từ nay chúng ta vĩnh viễn sẽ không bao giờ được nhìn thấy người thân yêu đó trên cõi đời này nữa.
(Xem: 5288)
Như các phần trước đã nói, chân tâm không sinh diệt và vọng tâm sinh diệt luôn tồn tại nơi mỗi con người chúng ta.
(Xem: 3149)
Thiền học là một môn học nhằm mục đích đào luyện trí tuệ để được giác ngộgiải thoát sanh tử mong đạt đến niết bàn tịch tịnh
(Xem: 4766)
Khi đức Phật đản sinh, trên trời có chín rồng phun hai dòng nước ấm mát tắm rửa cho Ngài
(Xem: 4559)
Mỗi độ tháng Tư về, trong tâm thức của những người con Phật đều hiển hiện hình ảnh huy hoàng Phật đản sinh bước đi trên bảy đóa sen
(Xem: 4293)
Phật giáo Đại thừa có cách nhìn nhận mới về đức Phật và lời dạy của ngài.
(Xem: 4743)
Đức Phật Thích Ca là một đức Phật lịch sử xuất hiện giữa thế gian để dẫn dắt chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đạt đến an lạc giải thoát.
(Xem: 4495)
Con người được sanh ra từ đâu là một nghi vấn vô cùng nan giải cho tất cả mọi giới và mãi cho đến thế kỷ 21 này vấn đề con người vẫn còn phức tạp chưa được ai minh chứng cụ thể.
(Xem: 4607)
Kinh Pháp Cú dành riêng hẳn một phẩm gọi là “Phẩm Tỳ kheo” để đề cập tới các người xuất gia.
(Xem: 7220)
Cuộc sống biến đổi không ngừng, mỗi một thời gian, mỗi một thế hệ có cách sống và nghĩ suy ứng xử có khác nhau.
(Xem: 5214)
Trước hết, thời gian vật lý là khách quan và tồn tại bên ngoài tâm trí con người và là một phần của thế giới tự nhiên, thứ hai, thời gian tâm lý chủ quan và có sự tồn tại phụ thuộc vào ý thức.
(Xem: 5010)
Hôm nay nhân ngày đầu năm, tôi có vài điều nhắc nhở tất cả Tăng Ni, Phật tử nghe hiểu ráng ứng dụng tu để xứng đáng với sở nguyện của mình.
(Xem: 4599)
Huyễn: Có nhiều nghĩa như tạm bợ, hư dối, phù du, huyễn hoặc, ảo ảnh, thay đổi luôn luôn, có đó rồi mất đó, biến dịch hoài trong từng sát-na.
(Xem: 5618)
Ngạ quỷ nghe kinh là một trong những đề tài khá quen thuộc trong kinh Phật. Người phàm thì không ai thấy loài ngạ quỷ, trừ một vài trường hợp đặc biệt.
(Xem: 5273)
Từ thế kỷ trước, người ta đã tìm được rải rác các thủ cảo (manuscripts) kinh Phật cổ xưa nhất viết bằng văn tự Kharosthi chôn ở các di tích Phật giáo ở Gandhāra, Bắc Afghanistan.
(Xem: 4164)
Thư Viện Quốc Hội Mỹ đã công bố một văn bản quí hiếm từ 2.000 năm trước của Phật Giáo và văn bản cổ này đã giúp cho chúng ta ...
(Xem: 6022)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 4722)
Trước hết xin giới thiệu sơ lược những nét chính của hai bộ kinh Đại thừa lớn ở Ấn Độ mà chúng đã trở nên đặc biệt quan trọng trong Phật Giáo Đông Á.
(Xem: 4882)
Từ khi Đức Như Lai Thế Tôn thị hiện cho đến hiện tại là 2019, theo dòng thời gian tính đếm của thế nhân thì cũng đã gần 2600 năm.
(Xem: 5485)
Tôn giả Tịch Thiên (Shantideva) là con của vua Surastra, sinh vào khoảng thế kỷ thứ VII ở Sri Nagara thuộc miền Nam nước Ấn.
(Xem: 5622)
Theo nghĩa đen của khái niệm, độc nhất là chỉ có một, mang nghĩa duy nhất. Trong kinh tạng Nikāya, khái niệm con đường độc nhất (ekāyana magga) là
(Xem: 5824)
Này các Tỳ-kheo, ta cho phép học tập lời dạy của Đức Phật bằng tiếng địa phương của chính bản thân (sakāya niruttiyā)
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant