Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Người Dịch

08 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 11256)
Lời Người Dịch

GIÁO TRÌNH PHẬT HỌC
(BUDDHISM COURSE)
Chan Khoon San
Biên dịch: Lê Kim Kha
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG 2011

Lời Người Dịch

 

Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San. Tác giả đã cho phép và có mong muốn tôi biên dịch quyển sách này ra tiếng Việt và phát hành ấn tống miễn phí đến những đối tượng độc giả người Việt khác nhau.

1. Độc giả đã đọc qua phần “Lời Giới Thiệu” của tác giả và có thể hình dung ra những chủ đề căn bản của Phật Học được bàn luận trong quyển sách này.

2. Chúng ta có thể biết đây là một tác phẩm biên dịch từ tất cả những nguồn Kinh Điển (trích dẫn) nguyên thuỷ, hàng trăm sách, tư liệu và tài liệu quý giá của những học giả nghiên cứu và những tu sĩ Phật giáo nổi tiếng nhất ở Miến Điện, Tích Lan, Ấn Độ & phương Tây, nếu chúng ta tìm hiểu thêm những tựa sách & tư liệu trong phần “Sách & Tài Liệu Tham Khảo”.

3. Quyển sách được biên tập theo trình tự của một giáo trình Phật giáo, từ những đề tài căn bản như Tứ Diệu Đế….cho đến Thiền Minh Sát, Tam Tạng Kinh Điển.

4. Quyển sách giảng luận về phần giáo lýlịch sử của Phật Giáo Nguyên Thủy với những trích dẫn từ Kinh điển được cho là ghi chép lại những lời do chính Đức Phật nói ra và được kết tập sau khi Đức Phật Bát-Niết-Bàn, không có phần giảng về Phật Giáo Đại Thừa trong giáo trình này.

5. Bản dịch tiếng Việt, người dịch đã cố gắng dịch tất cả nội dung và ý nghĩa ra tiếng Việt hiện đạichúng ta đang nói và tư duy ngày nay. Cũng như trong những dịch phẩm khác, người dịch cũng đưa vào những từ Hán Việt cần được sử dụng song song, một khi có những từ ngữ về chủ đề giáo lý mà tiếng Việt hiện nay vẫn cần phải mượn tiếng Hán Việt để quý độc giả dễ dàng nhận ra những thuật ngữ Phật học.

6. Quý độc giả nào cần có bản gốc tiếng Anh để đọc hay đối chiếu, xin vui lòng liên hệ người dịch hoặc nhanh nhất là tìm thấy ngay trên rất nhiều trang website Phật giáo như: buddhanet.com, urbandharma.org, nalanda.org.my

 

Người dịch xin gửi gắm quyển sách này cho:

1. Các Tăng Ni quan tâm đến nội dung quyển sách này và có thể dùng để làm giáo trình giảng dạy cho những Tăng sinh, Phật tử, những sinh viên ngành Phật học và những Phật tử.

2. Các Tăng sinh, sinh viên ở những trường Phật học trong nước có nhu cầu nghiên cứu về những đề tài giáo lý Phật giáo Nguyên thủy bằng tiếng Việt, với những trích dẫn kinh điển và những thuật ngữ bằng tiếng Pali. Các Tăng sinh, sinh viên muốn hiểu thêm Phật giáo Nguyên thủy như là một cách để đối chiếutìm ra những chân lý trong giáo pháp Đức Phật, nhằm giúp tìm ra những cách tu tập phù hợp nhất cho mình.

3. Những Phật tử gần xa muốn bắt đầu tìm hiểu hay ôn lại kiến thức Phật giáo của mình theo một trình tự và những chủ đề căn bản khá đầy đủ trong một quyển sách cầm tay.

 

Thay lời Cảm Tạ:

 

1. Xin chân thành cảm ơn tác giả Chan Khoon San, người đã giúp đỡ tôi và cho phép bản quyền quyển sách này được dịch ra tiếng Việt. Ông luôn luôn từ bi trao đổi và động viên tới thực hiện công việc biên dịch và phát hành này.

2. Xin cảm ơn thầy Thích Trúc Thông Tịnh (Trúc Lâm Thiền Viện), người đã luôn giúp đỡ, động viên tôi thật nhiều trong quá trình biên dịch những sách Phật học, cũng như nhắc nhở tôi trong việc thực hiện quyển sách bằng tâm và hành vi hướng thiện đúng mực & thanh tịnh để mang lại lợi lạc cho mình và mọi người; và thầy cũng là người giúp đọc, chỉnh sửa lại từng chương của bản thảo.

3. Cảm ơn cư sĩ Tiến Sĩ Bình Anson đã hoan hỷ giúp đỡ và cho phép đưa vào bài viết quý giá của ông “Quy Ước Trích Dẫn Kinh Điển Pali” trong phần “Phụ Đính” của quyển sách này.

4. Cảm ơn những Phật tử Nguyễn Thị Thu Nga, Ngô Đức Lân, Lê Hoàng Phi đã giúp đánh máy, sửa lỗi bản thảo.

5. Cảm ơn anh Vân Nguyên đã luôn hỗ trợ mọi mặt & Ban chế bản “Nhà sách Phật học Văn Thành” đã giúp hoàn thành bản in cuối cùng.

Cũng như lời tác giả, đây là công việc có được nhờ vào tâm từ và lòng hoan hỷ và sự ủng hộ và giúp đỡ của nhiều người, hy vọng độc giả sẽ tìm thấy những điều bổ ích trong những trang viết của quyển sách này.


Sài Gòn, mùa Hành Hương 2011 (PL.2555)

Lê Kim Kha


Kính tặng quyển sách này cho các thầy:
HT. Thích Thanh Từ
TT. Thích Thông Phương
&
Các quý thầy: Bảo Tú, Khế Định, Thông Kim, Thông Tịnh,
Khả Kiến, Thái Phước (Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, Thiền viện Thường Chiếu, Thiền Viện Sùng Phúc) & Sư Cô Như Pháp ─ các thầy đã là nguồn động viên cho tôi thật nhiều trên bước đường học Phật và làm Phật sự.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 116)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 134)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 239)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 268)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 283)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 346)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 269)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 345)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 447)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 412)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 358)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 443)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 664)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 516)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 540)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 627)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 817)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 889)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 917)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 899)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 783)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 770)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 773)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 867)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 877)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 992)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 771)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 661)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 765)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 869)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 773)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 775)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 894)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 925)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 877)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 925)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 958)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 948)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1145)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1010)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1731)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1110)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1244)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 986)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1259)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1165)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1169)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1332)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1624)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2088)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1145)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1397)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1143)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 992)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1095)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1140)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1567)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
(Xem: 1327)
Khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã quy chế cho cộng đồng Tăng phải an cư ba tháng mùa mưa, ngày nay lịch an cư tùy hệ phái, từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy theo truyền thống Phật giáo Bắc phương;
(Xem: 1345)
Trung đạo là khái niệm được dùng khá nhiều trong Phật giáo. Tùy duyênTrung đạo được định nghĩa khác nhau,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant