Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 8: Trên Đảo Indus

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7145)
Chương 8: Trên Đảo Indus

QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Tự Truyện Của Một Ni Sư Phật Giáo Người Tây Phương: Ayya Khema
Dịch từ tiếng Đức: Sherab Chodzin Kohn - Dịch từ tiếng Anh: Diệu Liên-Lý Thu Linh

Chương 8
Trên Đảo Indus

Nếu gặp được người chỉ rõ lỗi mình
Như thể chỉ lối vào kho báu

Là bậc tri thức chỉ đường ngay

Hãy kết làm tri kỷ

Bởi những bạn hiền như thế

Làm tốt cho ta, chẳng thể xấu bao giờ.

Kinh Pháp Cú - 76

Ở Sydney, một bức điện tín đang chờ đợi chúng tôi. Bức điện tín từ công ty cũ của Gerd nơi trước đó anh là kỹ sư điện của họ. Công ty mời anh hợp đồng làm việc trong hai năm ở Pakistan. Về lương bỗng, chúng tôi được trả rất hậu hĩnh. Nhưng còn công việc thì quả là gian nan. Người ta cần xây một nhà máy điện trên sông Indus, nơi hiện có một máy đập nước.

Chúng tôi quyết định chấp nhận hợp đồng một cách nhanh chóng. Công trình này nằm trong kế hoạch Colombo, một kế hoạch phát triển đã được nhiều nước phát triển ký ở Colombo, thủ đô của Sri Lanka. Các nước này cam kết sẽ thực hiện các dự án công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển, và họ sẽ tài trợ mọi thứ, từ nhân lực đến tài nguyên. Nhà máy điện ở Indus là một trong những loại công trình này, do Canada tài trợ.

Trước khi khởi hành, chúng tôi phải trình bày sự việc với đại diện chính quyền Úc về việc họ đã tài trợ cho chuyến đi của chúng tôi đến Úc, nhưng giờ chúng tôi phải đi Pakistan trong hai năm. Các nhà đại diện tỏ ra rất hợp tác. Họ chỉ yêu cầu chúng tôi bỏ số tiền tài trợ đó vào một ngân hàng. Trong hai năm, khi chúng tôi trở lại, thì có quyền lấy số tiền đó ra.

Và mọi chuyện đã xảy đúng ra như thế. Dầu rằng phải năm năm sau, chúng tôi mới trở lại Úc, nhưng vẫn được lấy tiền ở ngân hàng trở lại. Chính quyền Úc lúc đó tỏ ra rất trọng đãi những người như chúng tôi: một kỹ sư điện, với một vợ và một con có thể khiến họ tin tưởng rằng chúng tôi khó thể bị hoàn cảnh khó khăn nhấn chìm.

Chúng tôi không phải là những người du lịch hiểu theo nghĩa bình thường. Người du lịch sẽ quay trở về nhà, sau một thời gian nào đó. Trong khi chúng tôi là những kẻ lang thang cùng khắp trái đất, những kẻ không nhà.

Chúng tôi đặt vé máy bay đi từ Úc đến Pakistan (vé do công ty của Gerd đài thọ), có ghé ngang qua Do Thái. Gerd đã từng sống một thời gianDo Thái, nói lưu loát tiếng Hebrew, trước là một sĩ quan trong quân đội Do Thái, lại còn có rất nhiều bà con thân quyến ở đây. Rõ ràng là có quá nhiều lý do để chúng tôi phải ở lưu lại nơi đó vài tuần.

Do Thái, bao nhiêu nơi chốn trong kinh thánh lại trở thành hiện thực đối với tôi. Tôi cảm thấy như lại được tiếp xúc với truyền thống, nguồn gốc Do Thái của mình. Nói về khảo cổ học, Do Thái đúng là một kho tàng cổ báu. Mọi thứ đều gợi lên trong mắt du khách quá khứ đáng tự hào của xứ sở Do Thái

Sau đó, chúng tôi bay đến Karachi. Pakistan chào đón chúng tôi bằng thời tiết nóng không tưởng được. Thành phố Sukkur, ở Sindh, nơi chúng tôi lái xe đến đầu tiên sau khi rời Karachi, nằm giữa sa mạc Sindhi. Lúc đó, Sukkur có khoảng trăm ngàn dân, nhưng đó không phải là một thành phố bình thường như chúng tôi tưởng; đó chỉ là một tổng hợp của những ngôi nhà xây trong một biển bụi cát. Điểm nóng nhất trên thế giới chỉ cách đây khoảng ba mươi dặm, ở sa mạc Sahara.

Từ Sukkur, chúng tôi lái xe đến nơi nhận việc của Gerd, bên dòng sông Indus. Đến nơi, chúng tôi mới biết không có chỗ cho chúng tôi ở. Chỉ có công ty của Gerd là sung sướng khi có một người như anh sẵn sàng chịu nhận làm việc ở một nơi xa xôi như thế này. Bấy giờ không có nhiều kỹ sư chấp nhận những điều kiện như thế. Vì phần đông nếu có vợ con phải lo chỗ ở, nơi học hành đàng hoàng cho con cái họ. Dầu vui mừng đón tiếp chúng tôi, nhưng công ty hình như chẳng có chuẩn bị gì cho đời sống của chúng tôi ở đây.

Một bạn đồng nghiệp tương lai của Gerd cũng vừa đến trước chúng tôi ít lâu, nhưng anh không có gia đình. Anh chỉ mướn một căn phòng nhỏ để ở. Vì thế anh cũng chẳng giúp gì được cho chúng tôi, ngoài lời khuyên chịu khó kiếm tìm.

Chúng tôi đành phải tự đi tìm, may thay gặp được một nhóm kỹ sư Anh vừa sửa chữa xong một cây cầu bắc ngang sông Indus, và chuẩn bị trở về nước. Họ có hai dãy nhà dài trên một đảo trên sông Indus, tất cả đều là phòng đơn. Chỗ ở khá xa xôi, bất tiện. Nhưng họ vui lòng để lại cho chúng tôi tất cả. Không còn lựa chọn nào, chúng tôi đành chấp nhận, và sửa sang để biến chúng thành một nơi tạm trú khả dĩ. Trong mỗi phòng, đều có giường và đồ dùng. Mọi thứ khác đều phải mua tận Sukkur. 

Rồi bỗng nhiên một toán nhân viên phục vụ dành cho chúng tôi xuất hiện. Đó là do một bản hợp đồng đã ký kết giữa công ty và chính phủ Pakistan. Không ai hỏi han gì đến chúng tôi -họ tự động dọn vào nhà: một đầu bếp, một thanh niên phụ việc, một người quét nhà, một người giặt ủi, mấy người thợ máy để coi máy phát điện, và ba nhân viên bảo vệ thay nhau bảo vệ chúng tôi trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Tất cả các nhân viên này đều do chính phủ Pakistan trả lương. Chúng tôi phải nhận họ vào làm việc dù có muốn hay không.

Người đầu bếp thật là của báu. Anh đã từng làm đầu bếp trong các gia đình người Anh, và nấu ăn rất khéo. Cậu thanh niên phụ việc có nhiệm vụ bưng thức ăn, rửa chén. Khi làm việc, cậu bé đội trên đầu một khăn quấn màu vàng nghệ. Nhiệm vụ của người quét dọn là giữ cho khu vực của chúng tôi sạch sẻ -một cách tương đối thôi, vì nếu nhìn kỹ sẽ không thể bảo là sạch.

Nhưng tệ hại hơn cả là người lo giặt giũ quần áo. Anh ta làm quần áo chúng tôi hư hết. Ở đó người ta giặt đồ theo một cách rất đặc biệt: Quần áo được nhúng nước ướt, xong người ta đập chúng vào một tảng đá cho đến khi 'sạch'. Dĩ nhiên không có gì có thể sạch được, thêm vào không có dây để phơi đồ. Người ta phơi đồ bằng cách trải đồ ra trên mặt đất. Mỗi lần giặt đồ là có thứ này hay thứ kia bị hư hỏng. Có mấy lần tôi định cho anh giặt đồ nghỉ việc, nhưng anh ta phủ phục dưới chân tôi, xin được ở lại vì còn 'bảy con nhỏ' Vậy là tôi không thể đuổi anh ta.

Nhân viên bảo vệ cho chúng tôi cũng chẳng hơn gì. Một đêm kia chúng tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng kêu thảnh thốt “Ông ơi! Ông ơi!" , và tiếng dộng cửa phòng ngủ. Thì ra đó là người bảo vệ ban đêm của chúng tôi. Chân tay run cầm cập, anh ta đòi Gerd phải đi theo anh ta ngay. Qua cử chỉ của anh, chúng tôi cũng đoán được là có một con rắn hổ rất to nằm ngoài cửa nhà bếp. Gerd nói rằng, bổn phận của người bảo vệ phải biết làm gì chứ. Nhưng anh ta cứ kêu lên "Ông ơi! Ông ơi!" mãi. Cuối cùng Gerd phải ra cửa bếp, thấy con rắn hổ đang nằm cuộn tròn. Anh dùng đá chọi nó đi. Chúng tôi không bao giờ gặp lại con rắn đó nữa. Suốt khoảng thời gian đó, độ hơn nửa tiếng, anh chàng bảo vệ núp kín trong nhà bếp. 

Ngoài ra, chúng tôi cũng có một tài xế. Tuy bác tài không biết lái chiếc xe jeep mà chúng tôi đã được tặng lúc đến Pakistan (xe jeep của chúng tôi vẫn còn để lại ở Úc), nhưng bác biết nói tiếng Urdu, là ngôn ngữ ở đây, và Pushdu, là ngôn ngữ được sử dụng ở Bắc Pakistan. Vì thế bác tài trở thành người phiên dịch và cũng là người bảo vệ của chúng tôi.

Đó là hoàn cảnh gia đình chúng tôi lúc đó. Tài liệu học tập của Jeff tôi yêu cầu gửi từ Úc đến. Ở đây người ta không những chỉ có những chương trình học qua đài phát thanh cho trẻ ở những nơi định cư hẻo lánh, mà còn có trường dạy chương trình hàm thụ qua bưu điện. Tôi đã được trường học đó ở Pakistan phục vụ rất chu toàn. Mỗi sáng, tôi đều kèm Jeff làm bài. Đó không phải là một việc dễ làm, vì Jeff không chịu ngồi yên để làm bài với tôi bên cạnh. Mãi sau, cậu bé mới quen dần, có lẽ chính vì cậu rất thích đọc và viết.

Sau khi sống ở đó một thời gian, tôi gửi Jeff đến một trường ở Pakistan để cậu bé có thể giao tiếp với trẻ con đồng lứa tuổi. Jeff được học tiếng Urdu ở đó, nhưng là cậu bé ngoại quốc duy nhất giữa bảy trăm đứa trẻ khác, nên Jeff cảm thấy rất khổ sở. Vì thế chẳng lâu sau, chúng tôi lại phải để Jeff học ở nhà.

Gerd có văn phòng riêng -và một cô thư ký chẳng biết tí gì về nghiệp vụ của mình. Cuối cùng tôi phải đảm trách việc của cô và trở thành nhân viên của công ty. Cũng không phải là một giải pháp tồi, vì chúng tôi có thêm tiền lương, và Gerd cần một người phụ tá đắc lực. Ngoài những việc đó ra, tôi cũng không bận rộn lắm.

ì thế tôi tự học chuyên môn về ống dẫn dây điện. Công việc của Gerd là thiết kế hệ thống các đường dây điện, thực hiện các bước khảo sát cần thiết trên mặt đất, rồi vẽ các hoạ đồ để công nhân theo đó mà làm. Ngoài ra, nhà máy phát điện nối với các hệ thống đường dây này cũng được Gerd thiết kế chi li. Rồi anh cũng phải tính toán về nguyên vật liệu cũng như tiền chi phí. Nhà máy phát điện dự tính sẽ dùng sức nước của dòng Indus, nơi đã được khai thác thành đập nước. Vật liệu xây dựng đáng giá hàng triệu đô la được chuyên chở trên lưng các con lạc đà. Thật là một cảnh tượng khôi hài.

Đảo chúng tôi ở có cầu bắc đến cả hai bờ sông. Một đầu cầu nối đến Sukkur, đầu kia dẫn đến Rohri, là một thị trấn láng giềng.

Mỗi sáng, chúng tôi được đánh thức bởi tiếng xướng kinh vang vọng đến tận nhà chúng tôi. Đó là tiếng xướng kinh của một vị cố đạo ở trên đền cao, mỗi ngày năm lần, kêu gọi các con chiên của mình. Ngày nay trong các thành phố theo đạo Hồi giáo, người ta thường phát băng cassette qua máy phóng thanh. Nhưng trong những ngày ấy, người ta vẫn còn được nghe giọng thật, và giọng đọc kinh đó thật tuyệt vời. Tôi thường chăm chú lắng nghe, trong khi mắt tôi nhìn qua cửa sổ, sững sờ trước đàn lạc đà và lừa đủng đỉnh qua cầu, rung reng những cái chuông treo ở cổ, tạo thêm cho tất cả một vẻ hoàn toàn Á châu.

Ngoài nhiệm vụ quan trọng trong giao thông, những chiếc cầu còn mang các nhiệm vụ khác. Vì chúng là đầu nối giữa hai thành phố -Sukkur và Rohri- những người ăn xin thường tụ tập ở đó. Hàng chục người nằm, ngồi dọc theo cầu, chìa những bàn tay, bàn chân thương tật, kêu xin người qua đường bố thí. Tôi thường thấy dân địa phương bố thí cho mỗi người một đồng tiền.

Tôi hoàn toàn không biết phải phản ứng thế nào trong tình cảnh đó. Vì tôi và Gerd mỗi ngày đều hơn một lần đi qua đó, tôi cảm thấy tha thiết muốn làm gì đó cho họ, vì họ trông quá khổ sở, đau đớn, tuyệt vọng. Mặt khác, chúng tôi cũng không thể cho tiền họ mỗi ngày. Tôi bèn bàn với anh đầu bếp xem phải làm gì cho ổn thỏa.

Anh ta có một đề nghị rất thông minh, mà chúng tôi đã làm theo trong suốt thời gian chúng tôi ở đó. Anh ta bảo người giàu ở đây có thói quen hay mời cơm các thành viên trong tổ ăn xin của thành phố, mỗi tháng một lần. Anh ta bảo sẽ lo mua thức ăn, sửa soạn thức ăn cho họ. Khi tôi hỏi anh về đội ngủ ăn xin là thế nào, anh giải thích đó là một liên đoàn có chủ tịch, có các viên chức và những người ăn xin được liên đoàn chỉ định chỗ ngồi ăn xin đàng hoàng. Rồi anh chỉ cho tôi một người ăn xin có dáng vẻ tội nghiệp nhất, và bảo đó là chủ tịch của liên đoàn ăn xin, một người đàn ông khá giàu, có đến mấy căn nhà ở Sukkur.

Tôi lại lo lắng không biết làm sao để báo cho mấy người ăn xin biết chúng tôi sẽ mời họ như thế? Anh đầu bếp lại trấn an tôi là anh sẽ báo tin đó ở buổi chợ. Và mọi việc đã xảy ra đúng như thế. Vào một ngày nhất định, có khoảng năm trăm người ăn xin xuất hiện. Họ chuyện trò vui vẻ, ăn uống tận tình tất cả những món mà anh đầu bếp đã nấu dành cho họ. Anh đã phải sửa soạn, nấu nướng cả ngày hôm trước đó, cuối cùng không còn dư miếng nào. Có lẽ đó là cách tốt nhất, vì từ đó, mỗi lần chúng tôi đi qua cầu, các người ăn xin lại vẫy chào chúng tôi rất thân thiện, làm tôi cảm thấy nhẹ cả lòng.

Trong cuộc sống hằng ngày, kinh nghiệm của tôi đối với các người phục vụ trong nhà khi còn là đứa trẻ ở Bá Linh, đã giúp cho tôi rất nhiều. Tôi không thấy bỡ ngỡ, xa lạ khi bảo ban họ, như là mấy bà vợ của các kỹ sư ngoại quốc khác. Các bà vợ khác đôi khi phát bực khi phải lo cho quá nhiều người phục vụ. Thật vậy, đó không phải là một điều đơn giản. Lúc nào chúng tôi cũng phải lo cho họ mọi chuyện. Con gái của bác tài lập gia đình, tôi phải khuyên bác về việc mua sắm của hồi môn. Nếu một trong những 'nhân viên' của tôi bịnh, tôi phải kêu bác sĩ. Ngay cả khi họ cãi nhau, tôi cũng phải làm người đứng ra dàn xếp.

Tôi thường nhớ lại những thời gian cực khổ ở Thượng Hải, khi tôi rất nghèo. Giờ tự dưng chúng tôi dư giả, nếu không nói là giàu có. Tôi có bao nhiêu người giúp việc, và có thể mua gì tùy thích. Nhưng tôi cũng không biết phải mua gì cho mình. Một lần nữa cái cảm giác lạ lùng lại dâng trào trong tôi, cái cảm giác làm tôi nghĩ rằng phải có một cái gì đó cao hơn cái nghèo, cái giàu, cái có, cái không. Phải có cái gì hơn thế nữa thì cuộc đời mới có ý nghĩa hơn.

Rồi cuộc sống của chúng tôi cũng ổn định thành những ngày như mọi ngày. Jeff vẫn đi học, đi chơi. Gerd vẫn đến văn phòng hay lái xe đi khảo sát xem các đường dây cần được đặt ở đâu. Một lần anh trở về, kể rằng đã gặp một người nông dân rất già, ngồi bên vệ đường. Gerd xuống xe, hỏi ông lão đây có phải là đất của ông không, vì anh cần khảo sát địa hình. Người nông dân trả lời: "Không, đất đai này thuộc về thần Allah, tôi chỉ là người giữ đất". 

Đối với tôi, đó là một câu trả lời đầy ý nhị. Sống trên đảo, ngoài chúng tôi còn có một nhà truyền đạo Muslim, có nhiệm vụ giống như một linh mục. Ông sống một mình trong một ngôi đền nhỏ. Thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm ông mang theo bánh, trái cây. Vì chúng tôi không nói tiếng Urdu, chúng tôi phải mang theo anh tài xế làm người thông dịch. Tôi cảm thấy từ người truyền giáo này toát lên sự bình an. Ông có thể trao đổi với chúng tôi rất nhiều điều nếu như chúng tôi có thể trao đổi trực tiếp, còn bác tài của chúng tôi thì có lẽ chẳng hiểu gì về những điều chúng tôi muốn biết. Thật là uổng phí, vì không dễ gì gặp được những vị cao đạo mà bạn cảm thấy muốn gửi gắm những điều quan trọng.

Gerd bỗng ngã bịnh sốt rét. Tôi chở anh trong tình trạng nguy kịch, đến một bịnh viện của các bác sĩ quân đội người Hà Lan. Họ chữa khỏi cho anh, nhưng cũng phải mất mấy tuần trước khi Gerd có thể về nhà. Suốt thời gian trong bịnh viện, tôi cũng kiếm việc phục vụ để không cảm thấy mình vô tích sự. Nhưng phải thú thật là tôi đã cố gắng lắm để không gớm ghiếc, nôn mửa. Có lẽ tôi không thích hợp làm những công việc trong bịnh viện, nhất là trong những điều kiện như thế này. Những gì tôi mắt thấy, tai nghe ở nơi đây chỉ làm tôi thêm buồn lòng. Cách quản lý thì tồi tệ, dụng cụ y khoa thì thô sơ, không đảm bảo vệ sinh. Các bác sĩ đã làm tất cả trong khả năng của mình, nhưng lúc nào hình như cũng có quá nhiều bịnh nhân, quá nhiều căn bịnh.

Chúng tôi càng thêm thất vọng. Vì chúng tôi nhận làm công việc này không chỉ vì đồng lương, mà vì chúng tôi nghĩ có thể giúp cho cuộc sống của những người dân nghèo khổ ở đây được khá hơn, bằng cách đem đến cho họ ánh sáng của nguồn điện. Nhưng cuối cùng đó chỉ là một giấc mộng hảo huyền. Thực tế là chỉ có những điền chủ giàu có mới được hưởng sự ích lợi đó, còn người nghèo khổ thì chả được hưởng gì. Sau khi nhà máy phát điện đã được hoàn thành, họ vẫn nghèo khổ như tự bao giờ.

địa vị của Gerd, anh còn phải có bổn phận trong các công việc giao tiếp xã giaoChúng tôi phải giao tiếp với các đồng nghiệp trong ngành điện ở Pakistan, với các kỹ sư cùng làm trong công trình, các nhà ngoại giao và nhân viên ở lãnh sự quánChúng tôi thường phải tham dự các hội hè ở Lahore và Karachi. Những lúc đó chúng tôi phải nghỉ tại các khách sạn sang trọng, đắt tiền. 

Những loại công tác này không thích hợp với cá tính của chúng tôi. Cả Gerd và tôi đều cảm thấy đó không phải là cách sống của chúng tôi. Người ta tụ họp lại, xã giao ba tấc lưỡi, rồi ăn nhậu -đó là phần quan trọng nhất. Ngoài ra, chúng tôi ăn chay, mà trong các bữa tiệc này luôn thừa mứa các món ăn làm từ bao nhiêu là thịt cừu, thịt dê. Và các câu chuyện xã giao chúng tôi cũng chẳng thấy thú vị gì. Vì thế, chúng tôi quyết định là sau hai năm, chúng tôi sẽ không gia hạn hợp đồng làm việc.

Nhưng ở Pakistan, điều làm tôi bức xúc nhất là vấn đề nữ quyền. So với nam giới, họ chẳng có chút quyền hạn nhỏ nhoi nào, ít nhất là ở thời điểm chúng tôi có mặt ở đó. Có lẽ qua thời gian đã có nhiều thay đổi chăng, tôi sợ là không được nhiều lắm. Nhất là ở vùng thôn quê, nơi chúng tôi sống, tất cả phụ nữ Pakistan phải mặc burka. Burka là loại áo trùm phủ người đàn bà từ đầu đến chân. Chỉ chừa ra đôi mắt, để họ đi không bị vấp ngã thôi. Chỉ có ở Karachi, thỉnh thoảng tôi còn thấy các phụ nữ trẻ không che mặt.

Ban đầu tôi quen ra phố với trang phục bình thường, nhưng đám thiếu niên, hay ngay cả đàn ông lớn tuổi thường chọi đá vào tôi. Phụ nữ mà để mặt ra đường, anh đầu bếp cho tôi biết, bị người ta coi là gái điếm. Dầu tôi là người ngoại quốc, họ cũng chẳng cần quan tâm. Vì thế để khỏi bị lâm vào tình cảnh trên, cuối cùng tôi cũng phải nhờ thợ may may cho một bộ burka. Mặc loại áo đó thật là khốn khổ. Khó chịu nhất là bên trong rất nóng, tôi lại không thể thấy gì nhiều. Vì thế tôi cũng ít mặc nó ra đường.

Trong kinh thánh Koran tôi được đọc, phụ nữ chỉ có thể để lộ thân thể với chồng mình. Điều đó có nghĩa là, ngay cả với các bác sĩ, họ cũng không được phép cởi bỏ quần áo. Chỉ khi người chồng có mặt, thì các bác sĩ mới được quyền khám dưới lớp áo burka.

Phụ nữ chỉ được xuất hiện nơi đám đông khi thật cần thiết. Khi Gerd và tôi lái xe đi xuyên qua các vùng quê, chúng tôi thường được các điền chủ, hay các ông chủ nhà máy dệt, ở dọc theo lộ trình mời đến nhà. Không bao giờ trong các cuộc đón tiếp có mặt người phụ nữ. Chỉ khi nào tôi yêu cầu, thì mới được phép đến chỗ ở của họ. Những lúc như thế, tôi thường nghe phụ nữ than thở về sự bất hạnh của họ. Tóm lại, họ không được quyền làm gì cả ngoài việc sinh con và ăn uống. Khi còn trẻ, họ đẹp, nhưng vì không được đi đâu sau khi lập gia đình, họ thường trở nên béo phì. Cuối cùng, niềm lạc thú duy nhất của họ có lẽ chỉ là ăn uống.

Trong những gia đình chúng tôi thăm viếng, tôi được gặp một phụ nữ trẻ, con nhà gia giáo, có học, biết nói tiếng Anh. Cha cô từng là nhà ngoại giao của Pakistan ở Mỹ. Cô là dâu trong gia đình chúng tôi đến thăm viếng. Cuộc hôn nhân của cô rất đặc biệt -đó là một cuộc hôn nhân dựa trên tình yêu. Dầu vậy cô cũng rất khổ đau với những gì xã hội áp đặt lên cô. Cô đã thành lập một trường học cho các em bé gái, xem ra đó là ngôi trường duy nhất dành cho bé gái. Cô đã mời tôi đến thăm và dạy học ở đó. Nhưng việc không thành vì đám trẻ không nói được tiếng Anh, và tôi cũng không thể dạy chúng trong một thời gian quá ngắn. Rồi những ngày tháng sống ở Pakistan của chúng tôi cũng dần hết hạn.

Trước khi ra đi, tôi có đến viếng thăm cô bạn trẻ này đôi lần ở trường, và thấy cô rất hạnh phúc trong công việc của mình. Công việc này đã mang đến cho cô niềm tự tin mà các chị em bạn dâu khác của cô không thể nào có được. Họ chỉ biết ta thán về một cuộc sống buồn chán, tù túng. Chỉ có bà mẹ chồng là cảm thấy mọi việc không có gì đáng phàn nàn. Nhưng không biết khi còn trẻ, thì bà có suy nghĩ như thế không?

Có lần tôi mời họ đến nhà chơi. Họ đến trong những chiếc burka lụa đen, mà khi vừa bước vào đến bên trong, họ vội vàng cởi ra ngay. Đến khi thấy cậu bé giúp việc mang cà-phê, bánh vào, họ thét lên chạy túa ra khỏi phòng. Thì ra theo luật, cậu không được phép nhìn thấy mặt họ! Tôi phải thề sống, thề chết với họ là cả tôi cũng như cậu bé giúp việc sẽ chẳng ai dám hở chuyện đó ra với ai. Cũng phải một lúc sau, họ mới hoàn hồn để thưởng thức những chiếc bánh tôi đã đặc biệt dặn làm cho họ. Khi họ ra về, tất cả đều hết sạch.

Tôi hỏi họ có nghĩ đến việc thay đổi cách sống không? Tôi đề nghị một vài thay đổi mà tôi đã có suy nghĩ qua. Họ ừ hử, rồi hỏi tôi bằng cách nào? Hình như họ không xem những điều tôi nói là nghiêm chỉnh, cũng như không thực sự nghĩ rằng họ có thể thực hiện được. Rõ ràng là họ chỉ muốn được tâm sự dù chỉ một lần những bất hạnh của mình với một người mà họ biết chẳng bao giờ đem nói đi, nói lại. Nhưng ngoài việc thở than, họ chẳng muốn làm gì để thay đổi số phận cả. Tôi sợ rằng cho đến bây giờ những người phụ nữ Pakistan cũng vẫn phải chịu áp bức như ba mươi lăm năm trước, khi tôi sống ở đó.

Tôi còn nhớ rõ một cảnh tượng đã xảy ra ở Sukkur. Có rất nhiều rạp chiếu bóng ở đó, và một ngày kia, người ta quảng cáo một phim của cô đào Marilyn Monroe. Một tấm biển đồ sộ chưng hình cô đào mặc áo tắm được dựng lên! Chúng tôi tình cờ đi ngang qua, chứng kiến hằng trăm người đàn ông đứng trước tấm poster, trố mắt, há mồm ngắm nhìn thân thể của cô đào hát. Thật là quái gở. Trong khi đàn bà của họ, đi qua đi lại trong những tấm vải đen bịt bùng.

Gerd rất thích chụp ảnh. Trước cảnh tượng đó, anh đưa máy lên chụp. Hành động đó khiến anh xuýt bị no đòn, nếu như anh đã không nhanh chân chạy thục mạng. Nhẹ lắm thì chắc cũng bị họ đập nát máy ảnh. Có lẽ Gerd cũng không nên chụp hình lúc đó, nhưng cảnh tượng đó rõ ràng phản ảnh sự méo mó trong cuộc sống khi giới tính này đàn áp giới tính kia.

Sau hai năm, hợp đồng của chúng tôi chấm dứt, nhưng nhà máy điện vẫn chưa xây xong. Dự án tiến triển quá chậm. Các bản vẽ được thiết kế, thâu nhận, ký tên rồi chờ đợi. Mấy chú lạc đà đã tốn công chở hằng triệu đô la Canada tiền vật liệu trên lưng. Lạc đà đúng là một phương tiện chuyên chở tốt trên sa mạc cát, nhưng chúng cũng rất cứng đầu, cục tính. Nhiều con phải bị niềng quai hàm, nếu không nó sẽ cắn cả chủ. Và khi chúng không muốn di chuyển, chúng cứ nằm dài ra đường. Người ta nói nếu bắt lạc đà chở quá sức, chúng sẽ không đứng dậy. Sự lỳ lợm của chúng làm tôi phải ngạc nhiên.

Chúng tôi sống gần ở những nơi mà năm ngàn năm trước đây nền văn minh của thung lũng Indus đã rộ nở. Nhưng cho đến bây giờ, người ta cũng không giải thích được về sự lụn bại của nó. Thí dụ như Mohenjodara, cách nơi chúng tôi chừng bốn mươi kilomét. Người dân nơi đây từ thời xa xưa đó đã có nhà tắm xây trong nhà, cũng như rất nhiều nhà tắm công cộng. Họ đã có đường tráng nhựa, và hệ thống xử lý rác. Quanh Mohenjodara là những cánh đồng họ đã từng canh tác. Có giả thuyết cho rằng lý do thành phố này bị bỏ hoang là vì những cánh đồng này dần dần không cho hoa mầu, vì thế dân chúng cứ phải di dân dần ra xa, khỏi xứ. 

Chúng tôi thường đến thăm viếng những nơi hoang tàn đó, vì chúng rất nhiều trong vùng chúng tôi ở. Chúng tôi tìm thấy những hộp đất sét, nữ trang và rất nhiều lu hũ trang trí thẩm mỹ. Có lần chúng tôi khám phá ra một khu đồ đá, đào được khá nhiều đồ, nằm gần như lộ thiên: cung, nỏ, búa, dao. Chúng tôi lấy một ít và báo cho chính quyền ở Karachi về sự khám phá đó. Bảo tàng viện ở Karachi chở một đàn lừa đến chở đồ trong những chiếc túi vải về thành phố. Những món đồ này có đến hơn năm trăm năm, và có hình dáng giống như những đồ đá tìm thấy được ở Aâu châu.

Jeff thích đi lang thang khắp nơi trên đảo Indus. Cậu bé tìm được rất nhiều thứ: các loại ốc, cây kiếng và lu hũ. Chúng tôi thường nhờ bảo tàng viện ở Karachi định ngày tháng của những cổ vậtMột lần Jeff tìm được những miếng gạch bằng ceramic đẹp tuyệt vời. Có lẽ từ một ngôi đền xây trên đảo từ thế kỷ thứ bảy. Chúng tôi mang một ít gạch ngói này về Úc.

Lần khác, Jeff về nhà, giấu hai tay sau lưng và nói: "Mẹ, đoán xem con đã tìm được thứ gì?" Tôi không thể đoán được. Đó là một con ngựa nhỏ bằng đất sét, dài khoảng mười centimét, cao năm centimét. Sau này chúng tôi mới biết con ngựa đó đã một ngàn năm tuổi!

Jeff vẫn còn giữ con ngựa nhỏ đó ở nhà, trong một chiếc hộp lồng kính. Đó là vật duy nhất khiến Jeff nhớ về Pakistan. Ngoài ra không còn nhớ gì nữa cả -những con lạc đà, dòng Indus, các người giúp việc, những buổi sáng tôi dạy con học, tiếng xướng kinh của người giữ đền vào những buổi mờ sáng. Tất cả đã chìm vào lãng quên.

Khi thời hạn sống trên đảo đã hết, chúng tôi đóng tất cả đồ đạc vào các thùng và gửi về Úc, nhờ người ta giữ dùm. Gerd dự định sẽ bay qua Luân Đôn, mua một chiếc xe van hiệu Land Rover để lái xuyên suốt Aâu châu, Á châu, Kashmir, Ấn Độ, cho đến tận Singapore. Rồi từ đó chúng tôi sẽ lấy tàu trở về Úc. Dĩ nhiên đó chỉ là dự tính của Gerd, chứ không phải của tôi. Tuy nhiên, cũng như mọi lần, tôi luôn làm theo ý anh.

Những gì tôi muốn tìm kiếm, tôi cũng chưa khám phá ra. Có thể tôi sẽ tìm được chúng ở một nơi nào đó, một ngày nào đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1111)
Vào lúc 11 giờ ngày 01/01/2024, tại chùa Kiều Đàm số 1129 S Newhope Street, thành phố Santa Ana, miền Nam California, Đạo tràng Khánh Anh cùng chùa Kiều Đàm đã tổ chức Lễ Khánh tuế lần thứ 97 Trưởng lão Hòa thượng Thích Thắng Hoan.
(Xem: 1390)
Hòa Thượng THÍCH TUỆ SỸ (1945-2023)
(Xem: 1993)
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giớiHòa thượng Thích Quảng ĐứcBác sĩ Yersin.
(Xem: 5784)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, Tứ Thập Ngũ Thế, Hiền Như Tịnh Thất Trụ Trì, Pháp danh Tâm Hỷ, tự Thanh Diệu Pháp Ni Sư Chơn linh.
(Xem: 3604)
Ni Trưởng Thích Nữ Như Tuấn vừa viên tịch tại Chùa Phổ Hiền, Strasbourg, Pháp Quốc
(Xem: 4834)
Daisetsu Teitaro Suzuki sinh ngày 11 tháng 11 năm 1870 và mất ngày 12 tháng 7 năm 1966 tại thành phố Kamakura, Nhật Bản
(Xem: 4606)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Thắng Hoan - Chánh văn phòng Hội Đồng Giáo Phẩm GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 6706)
Được tổ chức tại Chùa Phật Đà, San Diego, California, vào lúc 10:00am ngày 27/9/2020.
(Xem: 18249)
Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tôn, tứ thập tam thế, Húy Thượng Tâm Hạ Nhẫn, Tự Hành Từ, Hiệu Chí Tín Giác Linh Trưởng Lão Hòa Thượng Liên đài chứng giám
(Xem: 3882)
Là bậc Cao tăng xuất chúng, bằng trực giác mẫn tuệ, sư Đạo Sinh tự nghiệm ra một lý lẽ rất cao siêu và công khai thuyết giảng rằng ai ai cũng có Phật tính
(Xem: 2965)
Mắt không phải là xiềng xích của sắc (cái được thấy), sắc cũng không phải là xiềng xích của mắt. Bất cứ tham và luyến nào khởi lên dựa vào hai thứ đó
(Xem: 5598)
Do niên cao lạp trưởng đã thu thần viên tịch vào lúc 02h56 phút ngày 16 tháng 4 nhuận năm Canh Tý - nhằm ngày 7 tháng 6 năm 2020 tại Thiền Viện Vạn Hạnh. Trụ thế: 84 năm, 47 hạ lạp.
(Xem: 11093)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 9099)
Thầy Tuệ Sỹ Là Viên Ngọc Quý Của Phật Giáo và Của Việt Nam - Nguyễn Hiền Đức
(Xem: 2611)
Bài của Olaf Beuchling - đăng trên tạp chí "BUDDHISMUS Aktuell“ (Phật Giáo Ngày Nay) số 2/2020, phát hành tháng Tư, Năm, Sáu – từ trang 44 - 49 Việt dịch: Đạo Hữu THỊ CHƠN Ngô Ngọc Diệp
(Xem: 6832)
Đại Lão HT Thích Quảng Độ viên tịch lúc 21 giờ 30 ngày 22 tháng 2 năm 2020, thượng thọ 93 tuổi, 73 hạ lạp
(Xem: 3237)
Dịch theo bản Anh dịch “The Enlightenment of Chiyono” của Anne Dutton, từ các trang 173-179 của sách “Zen Sourcebook: Traditional Documents from China, Korea, and Japan
(Xem: 5909)
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
(Xem: 3984)
Nhận thấy nhu cầu tìm hiểu những nhân vật, con người, đã và đang đóng góp công sức cho Phật giáo Việt Nam ngày nay...
(Xem: 5409)
Ôn thường canh cánh về Mẹ bên lòng khi còn sanh tiền. Trước khi “chết” Ôn về quê thăm Mẹ, lạy tình thương của Mẹ từ thuở ấu thơ.
(Xem: 18399)
“Rốt cuộc, tôi không biết gì, không có ý định gì cả, nên cuộc đời tôi ‘không vẫn hoàn không’, không có gì đáng nhớ, đáng nói… ‘Không vẫn hoàn không’ là Phật cho, tôi mới được như vậy.”
(Xem: 6335)
Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Quang (1923-2019) vừa viên tịch
(Xem: 5822)
Trưởng Lão HT Thích Chơn Thành sinh ngày mùng 9 tháng 8 năm 1934, tại Xã Xuân Thọ, Quận Sông Cầu, Tỉnh Phú Yên, Việt Nam.
(Xem: 3520)
Bài Thuyết Trình: Hành TrạngSự Nghiệp của Trưởng Lão Hòa Thượng THÍCH ĐÔN HẬU Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN nhân ngày Khánh Thành Chùa Đôn Hậu tại Na Uy
(Xem: 2495)
Vị thứ hai trong dòng những tái sinh Jamyang Khyentse là Đức Jamyang Khyentse Chokyi Lodro, người vĩ đại đến mức thật khó để tôi thậm chí thốt lên danh hiệu của Ngài
(Xem: 13506)
Kính Mừng Thọ 70 tuổi HT Thích Như Điển tổng hợp những bài viết cho Hoà Thượng Phương Trượng
(Xem: 5376)
Chương trình tang lễ của HT Thích Quảng Thanh được tổ chức tại Chùa Bảo Quang từ ngày 14 đến 17/6/2019
(Xem: 2723)
Hòa Thượng Thích Thiện Định là vị Tổ khai sơn chùa Pháp Hoa tại Marseille, Pháp Quốc.
(Xem: 3989)
Ngài thế danh là Diệp Quang Tiền, Pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác (Đồng sư với Hòa thượng Thiện Châu ở bên Pháp), hiệu Trí Ấn Nhật Liên
(Xem: 4549)
Chúng ta nói chuyện thế kỷ 13, đó là một thời nước lớn phía Bắc không thôi kinh ngạc khi nghĩ tới nước nhỏ Đại Việt phía Nam, cả về quân sự và Phật pháp.
(Xem: 3931)
Tây Tạng xưa nay là xứ huyền bí. Đó là vùng đất thường được gọi là mái nhà của thế giới, nơi sản sinh ra nhiều bậc thánh giả siêu việt, mà ngài Lạt Ma tái sinh Zong Rinpoche là một trong những hình ảnh tiêu biểu.
(Xem: 2630)
GS Tenzin nói, những kinh nghiệm đó cho anh thực hiện nhiệm vụ thông dịch khá là tuyệt vời. Đối với một người thông dịch nào không quen thuộc với Đức Đạt Lai Lạt Ma, công việc như thế sẽ rất là khó.
(Xem: 4368)
Hòa Thượng Thích Như Điển - Chân Dung Một Nhà Văn
(Xem: 3334)
Sư cô Thích Nữ Chủng Hạnh sanh ngày 12 tháng 8 năm 1933. Do tuổi cao sức yếu, đã thâu thần thuận tịch vào ngày 07 tháng 11 năm 2018. Trụ thế: 86 năm, Hạ lạp: 07 năm.
(Xem: 4699)
A Dục, Asoka (Sanskrit). Khi đức Phật Thích ra đời, Vua A Dục là một đứa trẻ, trong lúc đang chơi đức Phật đi ngang qua, đứa trẻ đem cát mà coi như cơm cúng dường cho Phật...
(Xem: 7557)
Chương trình tang lễ được tổ chức từ ngày 23 đến 25 tháng 10 năm 2018 tại Chùa Diệu Quang, 3602 W 5th St, Santa Ana, CA 92703. Tel: (714)554-9588
(Xem: 3444)
Sư bà Nguyên Thanhthế danh Lê Thị Quan, sanh năm1944, tại Quy Nhơn, là con gái thứ ba trong năm người con của ông Lê Đức Khánh và bà Trần Thị Quýt, làng Phú Nhơn, xã Cát Trinh, khuyện Phù cát, tỉnh Bình Định.
(Xem: 3744)
Chương Trình Lễ Tang sẽ được tổ chức lúc 5 giờ chiều Thứ Bảy ngày 4 tháng 8 năm 2018 và Chủ Nhật ngày 5 tháng 8 năm 2018, tại Đạo Tràng Nhân Quả, 10801 Trask Ave, Garden Grove, CA 92843
(Xem: 3445)
Hòa Thượng Thích Thiện Hữu thế danh Nguyễn Hữu Nghĩa thượng Như hạ Lễ tự Viên Nhơn, hiệu Thiện Hữu sinh năm Giáp Thân (1944) tại xã Nhơn Khánh, quận An Nhơn, tỉnh Bình Định.
(Xem: 7610)
Thay mặt chư tôn đức Tăng, Ni và quý Cư Sĩ Hội Đồng Điều Hành GHPGVNTNHK nhất tâm nguyện cầu Giác Linh Sư Bà Tân Viên Tịch Cao Đăng Phật Quốc.
(Xem: 12553)
Lễ Nhập Quan: Vào lúc 10 giờ sáng Thứ Sáu, ngày 12 tháng 1 năm 2018 tại Peek Funeral Home, 7801 Bolsa Ave., Westminster, CA 92683
(Xem: 16193)
Đức Trưởng lão Hòa Thượng thượng ĐỨC hạ CHƠN Viện chủ Tu Viện Quảng hương Già Lam, Sài Gòn vừa viên tịch lúc 03g40′ ngày 27/11/2017
(Xem: 4549)
Khó hình dung rằng một phụ nữ Anh đang phụ trách về kế toán trong một công ty quản trị quỹ đầu tư đa quốc bỗng nhiên trở thành một vị ni sư theo truyền thống Tây Tạng
(Xem: 52631)
HT Thích Đức Niệm - Trụ trì Chùa Ưu Đàm, Tp. Marina, California viên tịch lúc 11:30AM ngày 20/10/2017...
(Xem: 8653)
Hòa Thượng Phương trượng Chùa Thiền Tôn, húy Tắc An hiệu Lãng Thiện đời thứ 23 dòng thiền - Thiên Thai Giáo Quán Tông
(Xem: 16056)
Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Minh Tuyền (1938-2017) Khai Sơn Chùa Phật Giáo Việt Nam tại Nhật Bản
(Xem: 4062)
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu được tồn vinh đó là nhờ công đức sáng lập của Thầy.
(Xem: 3799)
Chỉ cần, đối cảnh vô tâm, hay cứ để mặc cho các pháp được thấy như là được thấy, được nghe như là được nghe… Và đó là Thiền Tông: không một pháp nào để làm.
(Xem: 8671)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ... TT Thích Nguyên Tạng
(Xem: 4015)
Ngay từ hồi còn trẻ cụ Chu Văn An (1292-1370) đã nổi tiếng là một người cương trực, giữ tiết tháo, không cầu danh lợi, chỉ ở nhà đọc sách.
(Xem: 12678)
Sư Bà đã viên tịch ngày 15/1/2017. Lễ Nhập Kim Quan vào lúc 9am, Chủ Nhật, 22/01/2017; Lễ Trà Tỳ vào lúc 3pm, Thứ Hai, 23/01/2017
(Xem: 12433)
Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng.
(Xem: 17180)
Chúng con/tôi vừa nhận được tin: Thượng Tọa THÍCH ĐỨC TRÍ Trụ trì Chùa Tam Bảo Tulsa, Oklahoma vừa viên tịch...
(Xem: 7180)
Vào tháng 4 năm 1998, tôi trở về nhà ở Dharamsala, Ấn Độ, sau hành trình giảng dạy dài và khoản thời gian miệt mài viết lách tại Mông Cổ và phương Tây.
(Xem: 5877)
Đại lão HT Thích Thiện Bình đã thu thần viên tịch 17-11-2016 (18-10-Bính Thân), tại chùa Long Sơn TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa), thọ 84 tuổi.
(Xem: 7237)
Xuất gia năm 1960, thọ Sadi giới ngày 17-11 năm Quý Mão (1963) tại Tổ đình Tường Vân, thọ cụ túc giới năm 1964 tại giới đàn Quảng Đức
(Xem: 8378)
Đức Vua Bhumibol Adulyadej, vị hoàng đế ở trên ngai vàng lâu nhất thế giới, vừa băng hà tại bệnh viện ở thủ đô Bangkok ngày 13-10-2016.
(Xem: 5326)
Tiểu sử của một lama vĩ đại được gọi là “namtar” (rnam-thar), một tiểu sử mang tính cách giải thoát, vì nó tạo nguồn cảm hứng cho người nghe...
(Xem: 6690)
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa con nhà gia giáo thuộc hạng trung lưu, trong gia quyến ai nấy đều theo đạo Phật.
(Xem: 8711)
Trong cuộc phỏng vấn năm 1999, Richard Gere nói về những năm tháng tu tập của mình, sự cống hiến của anh cho Lão sư của mình là Ngài Đạt La Lạt Ma.
(Xem: 5411)
Chu Văn An (1292-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh. Tên thật của Chu Văn An vốn là...
(Xem: 6447)
Theo các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo, người Nga đã biết đến đạo Phật nhờ tiếp xúc với các lân quốc vùng châu Á như Mông Cổ, Tây Tạng...
(Xem: 4706)
Thupten Jinpa là một cựu tăng sĩ, hoàn tục để lập gia đình, trở thành một tác giả, và trong 30 năm qua, là người thông dịch chính về tiếng Anh cho Đức Đạt Lai Lạt Ma.
(Xem: 14106)
Lễ nhập Kim Quan lúc: 04 giờ chiều ngày Thứ Bảy: 25/6/2016; Lễ cung tống Kim Quan trà tỳ lúc: 08 giờ sáng ngày Thứ Năm: 30/06/2016
(Xem: 5615)
Bồ Tát Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng Lê Văn Duyệt, toàn thân Ngài bất động điềm nhiên trong tư thế thiền định...
(Xem: 5746)
Bài thuyết trình cho Khóa An Cư Kiết Hạ tại Niệm Phật Đường Fremont, SanJose, từ ngày 13-23 tháng 6 năm 2016
(Xem: 9907)
Kỷ Yếu Tri ÂnTán Dương Công Đức của Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Huyền Tôn
(Xem: 8744)
Đức Trưởng Lão HT Thích Như Huệ Chứng minh Đạo sư GHPGVNTN Úc Đại Lợi - Tân Tây Lan
(Xem: 7179)
Trong số mấy chục vị Thánh Tử Đạo ấy có Sư Cô Thích Nữ Diệu Định ở Quảng Nam-Đà Nẵng...
(Xem: 35101)
Lễ nhập kim quan lúc: 09:00am, ngày 12/3/2016. Lễ di quan lúc 10:00am ngày 15/3/2016
(Xem: 5523)
Đại Lễ Tri Ân nhị vị Hòa Thượng Trưởng Lão của Giáo HộiTrưởng Lão Tăng Giáo Trưởng HT Thích Huyền Tôn và Trưởng Lão Chứng Minh Đạo Sư HT Thích Như Huệ.
(Xem: 10634)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm HT Thích Hạnh Tuấn (1956-2015) Chùa Trúc Lâm Chicago, USA ấn hành 2015
(Xem: 13093)
Kể từ khi tổ Minh Hải–Pháp Bảo khai tông lập giáo, tính đến nay dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh đã trải qua 300 năm lịch sử với 12 đời truyền thừa...
(Xem: 7638)
Dẫu là một ông vua, cai trị một đế chế rộng lớn, quyền uy sinh sát trong tay, nhưng kỳ thực A Dục Vương vẫn là một đệ tử Phật, một tín đồ thuần thành của Phật Giáo.
(Xem: 17767)
HT Thích Tâm Thọ, Thành viên Giáo hội Phật giáo Việt Nam trên thế giới, Viện Chủ Chùa Giác Hoàng, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, Hoa Kỳ
(Xem: 6607)
Thiền sư BẠCH ẨN HUỆ HẠC (Hakuin Ekaku), thế danh Iwajiro (Nham Thứ Lang, nghĩa là cậu bé đá), quê tại Hara, tỉnh Suruga, thị trấn Numazu, hạt Shizuoka, Nhật Bản.
(Xem: 19886)
HT Thích Hạnh Tuấn, Trú Trì Chùa Trúc Lâm, Chicago, đã viên tịch; Lễ Nhập Liệm vào ngày thứ 4, 4/11/2015; Lễ Trà Tỳ vào ngày Chủ Nhật, 8/11/2015
(Xem: 13401)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16186)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 26960)
Lễ nhập quan sẽ được cử hành vào lúc 14 giờ ngày 25 tháng 08 năm 2015 (nhằm ngày 12/07/Ất mùi)
(Xem: 28790)
Trưởng lão Hòa Thượng vừa thâu thần viên tịch tại Tổ đình Từ Quang, thành phố Montreal, Canada, lúc 10g15 thứ Năm, ngày 20-8-2015, trụ thế 95 tuổi đời, 74 Hạ Lạp
(Xem: 10834)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Minh Tâm (1940-2013)
(Xem: 7613)
Pháp danh của ông là Buddhadasa có nghĩa là người tỳ kheo hầu hạ Đức Phật, thế nhưng người dân Thái thì lại gọi ông là Ajhan Buddhadasa.
(Xem: 7062)
Ngài Tịch Thiên (Shantideva) là một trong những vị luận sư lỗi lạc nhất của thời kỳ sau trong quá trình phát triển tông phái Đại thừa
(Xem: 10174)
Ngài Huyền Trang theo truyện Tây Du không gọi là Huyền Trang mà kêu là Tam tạng thỉnh kinh hay Đường Tăng. Trong sách nói đủ là Tam tạng Pháp sư Huyền Trang.
(Xem: 10199)
Tranh vẽ Chân Dung HT Tuệ Sỹ của nhiều tác giả
(Xem: 8067)
Có một người đã cắt bỏ được sợi dây ràng buộc của gia đình để sống theo tăng đoàn của đức Phậtcống hiến trọn cuộc sống của mình cho công cuộc hoằng dương Phật pháp, đó là Tôn Giả Phú Lâu Na.
(Xem: 8093)
Huệ Viễn đại sư họ Cổ, nguyên quán xứ Lâu Phiền ở Nhạn Môn thuộc tỉnh Sơn Tây. Ngài sanh tại Thạch Triệu, năm Giáp Ngọ, vào niên hiệu Diên Hy đời vua Thành Đế nhà Tấn.
(Xem: 6867)
Đức Đại lão Hòa thượng Thích Trí Thủ (1909 - 1984), Đệ nhất Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN là bậc cao tăng có những cống hiến to lớn đối với Đạo pháp và Dân tộc
(Xem: 10020)
Đức Đệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội Phật Việt Nam Thống Nhất, Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Giác Nhiên, viên tịch năm kỷ Mùi.
(Xem: 20782)
Hòa Thượng Thích Tuệ Chiếu, thế danh Lưu Đức Thụy, Pháp danh Thiện-Uẩn, Pháp hiệu Hồng Liên, pháp tự Tuệ Chiếu thuộc Thiền Phái Lâm Tế đời thứ 40.
(Xem: 24143)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 15238)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 8198)
Từng nghe, lòng dạ kiên trinh, ý chí vững bền, khí tiết đặc biệt đâu phải hoàn toàn do bẩm tính tự nhiên mà phải dốc lòng kính ngưỡng, noi theo những bậc có đức hạnh cao vời.
(Xem: 18699)
Vào lúc 15 giờ ngày 14/12/2014, tại An Tường tự viện, Oakland, California, Hoa Kỳ, các tự viện đã phối hợp cùng Môn đồ pháp quyến tổ chức Lễ truy niệm và phát tang HT húy thượng Đồng hạ Đạt, tự Thông Đạt, hiệu Thanh An, Viện chủ An Tường tự viện
(Xem: 16597)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 10885)
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) thường được tôn xưng là “đức Phật thứ hai” bởi các truyền thống Phật Giáo Đại Thừa tại Tây Tạng và Đông Á.
(Xem: 7322)
SB Diệu Không thế danh là Hồ Thị Hạnh, húy là thượng Trừng hạ Hảo, hiệu là Nhất Điểm Thanh. Sư Bà sinh năm 1905, con gái Út của Cụ Hồ Đắc Trung và Cụ Châu Thị Lương, làng an Truyền, huyện Phú Vang tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 7909)
Hòa Thượng thế danh là Nguyễn Văn Kính, sanh ngày 17 tháng 11 năm Tân Mão, nhằm ngày 17 tháng 12 năm 1891, tại làng Dưỡng Mong Thượng, tổng Phú Mỹ, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên.
(Xem: 14209)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant