Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 14: Ngôi Nhà Phật Ở Allgau

14 Tháng Ba 201100:00(Xem: 7092)
Chương 14: Ngôi Nhà Phật Ở Allgau

QUÀ TẶNG CUỘC ĐỜI
Tự Truyện Của Một Ni Sư Phật Giáo Người Tây Phương: Ayya Khema
Dịch từ tiếng Đức: Sherab Chodzin Kohn - Dịch từ tiếng Anh: Diệu Liên-Lý Thu Linh

Chương 14
Ngôi Nhà Phật Ở Allgau


Ví như sống đặng trăm năm
Nhưng không tu chỉnh, thiếu trí tuệ

Không bằng một ngày sống

Của bậc tỉnh thức, của người tu thiền.

Kinh Pháp Cú - 111

 
 

Vào mùa xuân năm 1989, từ Sri Lanka, tôi đặt chân xuống phi trường Munich. Charlie, người đệ tử không biết nói tiếng Anh ở Bali của tôi, ra đón. Sau đó chúng tôi đi xe về Uttenbuhl. Trời đang mưa, lạnh giá.

Uttenbuhl là một ngôi làng nhỏ với chỉ năm mái nhà, nằm giữa một cánh đồng xanh mướt. Vào mùa xuân, các dòng nước do tuyết tan từ trên núi rừng đổ xuống đầy đường xá, ngõ ngách.

Ngôi nhà nằm kế bên căn nhà cuối cùng cạnh rừng, có cây lê già trong vườn, là nơi trú ngụ mới của tôi. Tôi rất yêu thích ngôi nhà đó. Nhờ vào tiền đóng góp ủng hộchúng tôi có thể mua được ngôi nhà đó, và từ tháng hai người ta đã bắt tay vào việc sửa chữa, nâng cấp ngôi nhà. Tất cả các công trình xây dựng, sửa chữa đều do các đệ tử của tôi phụ trách. Họ cúng dường công sức, không chịu nhận thù lao.

Charlie là huấn luyện viên môn tennis ở Munich; Roland ở Rosenheim, là nhà thiết kế nội thất, kiêm luôn chuyên viên làm các kệ tủ, và tạo cây cảnh; Gudrun dạy thể hình và khiêu vũ ở miền bắc nước Đức; Heinz, thương gia ở Munich; và Norbert, em của Roland, cũng là đệ tử của tôi từ lúc ở Bali, cùng thời với Charlie -các đệ tử này đã góp sức giúp tôi từ những ngày đầu.

Tôi vẫn còn nhớ ngày tôi đặt chân đến đó rất rõ ràng. Mọi thứ vẫn còn hỗn độn -sách vở, hành lý, thùng hàng- chúng tôi phải thức đến bốn giờ sáng để xếp đặt mọi thứ đâu vào đấy. Các bạn trẻ đều ngạc nhiên trước năng lực làm việc của tôi.

Chúng tôi hoàn tất công trình sửa chữa ngôi nhà với sự tiếp sức của những người thợ chuyên môn trong một thời gian ngắn đến không ngờ. Tôi đến đó vào tháng tư. Tháng năm tôi đã có thể bắt đầu khai giảng khóa học đầu tiên. Nếu tôi nhớ không lầm, có khoảng hai mươi học viên tất cả. Chỉ ít phút trước khi học viên đầu tiên bước vào lớp, chúng tôi vẫn còn tranh thủ treo nốt các bức tranh trong phòng và ngoài hành lang. Rồi thở phào nhẹ nhỏm, chúng tôi có thể xếp các dụng cụ lại một bên để bắt đầu.

Mỗi tối thứ tư tôi đều tổ chức gặp mặt (open house), tiếp đón mọi người muốn đến tham quan, tìm hiểu Phật giáoTruyền thống này vẫn được tiếp tục cho đến ngày nay. Tôi thường nói một thời Pháp, sau đó chúng tôi ngồi thiền. Ngày thứ tư đầu tiên có khoảng năm người đến tham dự. Giờ thì có khoảng từ sáu mươi đến chín mươi người thường xuyên đến vào các tối thứ tư -là con số cao nhất chúng tôi có thể chứa trong thiền đường. Sau buổi tọa thiền, chúng tôi dùng trà với khách. Đây là khoảng thời gian người ta thường dùng để trò chuyện, tâm sự, giãi bày mọi thắc mắc trong tâm tư.

thời gian, vì thiếu chỗ, tôi không thể tổ chức các khóa tu họctrung tâm Buddha-Haus (Ngôi Nhà Phật), mà phải sử dụng các tu viện Thiên Chúa Giáo. Ở Buddha-Haus, chúng tôi chỉ có chỗ ngủ cho khoảng ba mươi người, khiến cho nhiều người phải ghi tên chờ đợi khá lâu, vì thường chúng tôi có đến hơn hai trăm người ghi tên học.

Các tu viện Thiên Chúa Giáo tiếp đón chúng tôi rất nồng hậu. Chúng tôi trả tiền ăn, tiền phòng cho họ, và giữ sự 'im lặng là vàng'. Ngoài ra, các thầy tu ở đây cũng rất muốn tìm hiểu công việc làm của chúng tôi. Ở tu viện St. Albert ở Walberberg bei Koln, có vị thầy sắp trở thành cha dòng, tham dự tất cả các buổi giảng của tôi. Ở Niederaltaich trong các cánh rừng Bavarian, chính cha xứ cũng tham gia ngồi thiền. Oâng đã học thiền ở một thiền viện Nhật Bản, và đã viết nhiều sách về thiền và việc cầu nguyện. Oâng vui vẻ kể đã có nhiều thầy dòng quan sát các buổi thiền hành của chúng tôi và nói rằng họ cũng muốn tham gia. Tôi nghĩ là các hành lang trong các tu viện cổ kính này có lẽ trước đây đã được sử dụng cho các mục đích tương tự.

Tôi rất quan tâm về việc phát triển và duy trì những cuộc đối thoại có tính cách hòa đồng tôn giáo như thế này. Tôi không quan niệm phải coi Phật giáo như là phương tiện duy nhất dẫn đến giải thóat. Tôi muốn chứng tỏ với dân Đức rằng ta có thể đi đến con đường tâm linh bằng chính tôn giáo của mình, và muốn giúp họ tìm được sự bình an sâu lắng trong tâm hồn. Tôi cảm thấy có bổn phận phải hướng dẫn người Tây phương đi trên con đường các thầy tôi đã dẫn dắt tôi đi. Đứng trên phương diện này, tôi có nhiều lợi thế vì tiếng Đức cũng như tiếng Anh đều như tiếng mẹ đẻ của tôi, vì tôi đã sử dụng cả hai từ thời thơ ấu

Phần lớn năng lực tôi dồn vào những năm hoạt động ở Sri Lanka và ở Đức vì tôi có cảm tưởng mình không còn nhiều thời gian. Từ năm 1983 tôi đã khám phá ra mình bị ung thư. Khi cảm thấy có một cục u trong ngực, tôi đã đi khám bác sĩ ở Uùc. Bà bác sĩ sau khi làm khám nghiệm cho biết kết quả: bướu ác tính.

Lúc đó chúng tôi chỉ vừa bắt tay xây dựng ni viện trên đảo ở hồ Ratgama. Tôi nóng lòng muốn hoàn thành công trình, và cũng cảm thấy hoàn toàn khỏe mạnh, không đau ốm gì. Tôi bảo với bà bác sĩ là tôi không muốn phẫu thuật, vì tôi không muốn bị kéo vào quỹ đạo trị bịnh ở các bịnh viện, mà một khi đã sa vào, người ta khó thể thoát ra. Tôi còn nhớ rất rõ là bà bác sĩ đã nhìn tôi rất lâu, rồi bảo rằng mẹ của bà cũng bị ung thư ngực, và cũng đã chọn quyết định giống như tôi. Mẹ bà đã sống mười lăm năm với căn bịnh, mà không giải phẫu. Hai tháng sau cùng bà mới trở bịnh, rồi ra đi. Tôi bảo nếu được thế càng tốt. Tôi rất muốn được như người mẹ ấy.

Những năm tháng sau đó, căn bịnh chỉ đem lại cho tôi cái cảm giác khẩn trương -trong tiếng Pali là samvega- mà Đức Phật vẫn khuyên ta nên có. Phải gấp rút, khẩn trương tu tập vì không ai biết được mình sẽ sống bao lâu. Và khi bạn mang trong mình căn bịnh ung thư, bạn càng thấy rõ điều này hơn.

Mỗi người đều mang bản án tử hình. Không có ai sống mãi trên đời. Chỉ có điều ta thường không nghĩ đến bản án đó, để sống như thể thời gian sống của ta bất tận.

Cảm giác khẩn trương này thúc đẩy tôi phải hoàn thành công trình xây ni viện trên đảo, để con số phụ nữ được có điều kiện tu học trong hoàn cảnh thuận lợi được nâng cao. Tôi cũng muốn viết thật nhiều sách để dân Đức được biết đến giáo lý của Đức Phật càng nhiều càng tốt. Lúc trẻ, tôi đã ao ước có một ngày viết được một đại tác phẩm. Tôi đã mơ mộng đến ngày cầm quyển tiểu thuyết nổi tiếng đó trong tay. Tôi chẳng bao giờ có cơ hội viết quyển tiểu thuyết đó, nhưng đến giờ thì tôi đã xuất bản hơn hai mươi lăm đầu sách, và việc tôi ký tên tặng sách không còn mới mẻ gì. Nhưng tôi hạnh phúc không kém, vì qua những quyển sách này, Phật pháp đã được truyền bá đến bao nhiêu người. Đức Phật đã không gọi các lý thuyết của mình là Phật giáo (Buddhism) nhưng Ngài gọi là Pháp (Dharma), có nghĩa là “luật thiên nhiên" hay “sự thật tuyệt đối".

Ngày nào còn sống, tôi còn muốn được tiếp tục giảng Pháp. Tôi muốn giúp đở tất cả những ai muốn quay vào tìm hiểu chính mình, được biết đến thiền. Có rất nhiều tầng tâm thức hoàn toàn khác với những tâm thức ta thường biết. Qua đó, ta có thể hiểu về tôn giáo ở một mức độ sâu xa mà người ta chỉ có thể đến được qua thiền định.

Những người đến nghe tôi giảng, những người đến dự các buổi, các khóa tu của tôi không cần phải là, hay phải trở thành Phật tửĐức Phật chẳng bao giờ dùng danh từ đó. Ngài chỉ nói chúng ta là các hành giả, những người thực hành với trí tuệ.

Dầu bạn là người theo Kitô giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Do Thái hay Aán Độ giáo, không thành vấn đề đối với tôi. Tôi không phân loại người ta theo tôn giáo, vì như thế chỉ làm cho con người thêm chia rẽ nhau hơn. Nếu chúng ta còn suy nghĩ: "Tôi là thế này, anh là thế khác", thì chúng ta vẫn còn chia rẽ, xa cách nhau. Đó là sự chọn lựa sai lầmThực tếchúng ta cùng chung trong một đại gia đình nhân loại.

Đức Phật chỉ có một mục đích: là chỉ cho tất cả chúng sanh biết làm thế nào để được hoàn toàn hạnh phúc. Ngài không bao giờ tìm kiếm đệ tử hay tín đồ. Đó cũng là phương pháp của tôi. Dầu người tìm đến với tôi có bảo họ là Thiên Chúa hay vô thần, không quan trọng. Chỉ cần họ có ý hướng muốn tìm về con đường nội tâm, tôi sẽ giúp họ tìm ra những gì thật sự ẩn chứa bên trong con người của tất cả chúng ta -sự bình an thực sự, chân hạnh phúc.

Tôn giáo không gắn chặt với các phong tục văn hóa hay xã hội của một quốc gia. Những phong tục đó đôi khi cũng hữu ích cho con người, nhưng chúng không phải là tính chất của tôn giáoTôn giáo là sự khám phá nội tâm, để đáp ứng cho nhu cầu muốn tìm đến chân thiện mỹ trong mỗi chúng ta.

Tôi đã đọc nhiều về sự thần bí của Thiên Chúa Giáo trong thời đại trung cổ, nhất là các tác giả như Meister Eckhart, Johannes Tauler, Heinrich Seuse, Teresa of Avila, Francisco de Osuna. Nhất là những lời giáo huấn của Teresa đối với các vị nữ tu trong quyển Lâu Đài Nội Tại (The Interior Castle) đã gây ấn tượng sâu đậm đối với tôi, vì trong đó bà đã diễn tả những trạng thái giống như thiền định mà tôi cũng từng thuyết giảng -chỉ có khác là bà diễn tả bằng cách riêng của mình, theo những viễn ảnh được phác họa trong Thiên Chúa giáo.

Tôi đã hai lần thuyết giảng ở Tổ chức Eckhart ở Anh, dựa trên những điểm chung có thể tìm thấy trong giáo lý của Đức Phật và trong những bài thánh kinh của Meister Eckhart.

Tôi nghĩ rằng việc tôi trở lại Đức là một yếu tố rất quan trọng. Cuộc hành trình cuộc đời của tôi đã bắt đầu từ đây và tôi đã trở về đây trong những ngày cuối đời.

Nhưng cuộc hành trình của nội tâm thì lại theo một con đường hoàn toàn khác. Tôi đã bắt đầu giống như bao người bình thường khác, cũng theo đuổi những mục đích sống như mọi người khác. Nghề nghiệp, gia đình và con cái. Những âu lo, hy vọng, sợ hãi -cuộc đời tôi không thiếu thứ gì cả. Nhưng ở cuối của cuộc hành trình nội tâm, tôi đã đến được bến của sự bình an, hạnh phúc.

Tôi rất vui mừng là tôi đã có thể truyền đạt lại phần nào những gì tôi đã khám pháù. Tôi đã chứng minh cho chín đệ tử của tôi ở Đức được phép giảng dạy hầu lưu truyền các phương pháp thiền định, để chúng không bị mai mộtNgoài ra tôi cũng chứng minh cho bốn người khác làm công tác đó ở Uùc và một ở Mỹ.

Một năm sau ngày tôi đến Buddha-Haus, Charlie trở về Munich, lập gia đìnhtrở về với công việc làm huấn luyện viên tennis. Gudrun, sau gần tám năm làm thư ký ở Buddha-Haus, cũng đã ra đi. Những người mới lại đến thay thế: Traudel, tốt nghiệp môn Toán, là một chuyên viên vi tính đã phụ trách phần kế toán, ngân sách, các catalog, xếp chữ và in ấn các sách của tôi ngay tại phòng phát hành của chúng tôi.

Về vấn đề nấu nướng, chúng tôi cũng có người tiếp tay tại Buddha-Haus. Chúng tôi ăn chay và không đòi hỏi gì. Mọi thức ăn đều đơn giản, vệ sinh và được nấu bằng tất cả tấm lòng.

Chúng tôi giống như một đơn vị kinh doanh nhỏ, rất cần có tổ chức. Phải có người trả lời điện thoại, thư tín, đặt hàng.

Công tác vệ sinh ở Trung tâm được các thiền sinh hay các khách vãng lai giúp tay. Buổi sáng luôn có một giờ "làm việc vì người khác" trong thời khắc dành cho mục đích này.

Tiền cúng dường, tiền học phí, tiền bán băng (thu trong các buổi nói chuyện của tôi) và sách là nguồn thu nhập nuôi sống chúng tôi cũng như trang trải việc in ấn. Tất cả mọi người tham gia cuộc sống chung ở đây đều đã từ bỏ tiền của, sở hữu cá nhân. Cũng từ nguồn tiền trên chúng tôi trang trải bảo hiểm y tế và tiền dằn túi cho mỗi người.

Tổ chức của chúng tôi thật là đa đoan. Cũng may tôi có chút năng khiếu và nhiều kinh nghiệm trong lãnh vực này. Trong các tu viện hay trung tâm Phật giáo, trật tự phải được tôn trọng triệt để. Người ta khó có thể giử đầu óc thảnh thơi dành cho việc tu tập, nếu như quanh họ mọi thứ đều lung tung, lộn xộn. Hơn nữa, ngoại cảnh quanh ta là tấm gương phản chiếu tâm hồn ta.

Roland, nhà thiết kế nội thất ở Rosenheim, người đã thiết lập các hệ thống chất thải cũng như nhiều thứ khác nữa ở trung tâm; người đã thiết kế các bìa sách của tôi ở Đức, từ những ngày đầu tiên đã nêu tấm gương ở Buddha Haus. Năm 1993, anh quyết định xuất gia. Tôi làm lễ thọ giới cho anh cùng với một tu sĩ người Ấn Độ, ở Ladakh đến viếng thăm chỗ chúng tôi. Tôi dịch bài kinh đọc ở lễ thọ giới sang tiếng Đức, và cũng tụng nguyên bản tiếng Pali. Thật là một buổi lễ cảm động. Tất cả mọi người trong gia đình Roland đều đến tham dự.

Từ ngày đó trở đi, Roland được gọi là Nyanabodhi. Thầy là vị tăng người Đức đầu tiên được thọ giới ở ngay nước Đức.

Năm 1993 cũng là năm tôi phải trải qua cuộc giải phẩu cam go. Khối u trong ngực tôi càng ngày càng lớn đã vỡ ra, khiến tôi rất đau nhức, và nó lại chảy máu luôn.

Trước khi giải phẩu, tôi đã cố gắng làm xong hết những dự định của mình. Và để không lưu lại những ác cảm hay khó khăn cho ai, tôi đã viết thư cho tất cả những người mà tôi đã có sự bất đồng dù lớn hay nhỏ, dù là mới đây hay đã từ lâu. Tôi xin lỗi mọi người về những lỗi vô tình hay cố ý, nói rõ cho họ hiểu là tôi vẫn nghĩ về họ với tình thương yêu. Tôi làm tất cả để không còn gì vướng mắc cho sự ra đi nhẹ nhàng của mình.

Hai ngày sau khi giải phẩu, có lúc tôi có cảm giác như sự sống của tôi bị bào mòn, hay đúng hơn nó chạy xuống gót chân tôi và tan đi. Tôi hoàn toàn sẳn sàng chờ đón cái chết, sẳn sàng ra đi, bằng lòng để buông bỏ tất cả.

Có bao nhiêu tấm thiệp, bao bó hoa do các đệ tử của tôi gửi vào, nói lên tình cảm của họ dành cho tôi, đồng thời nói rằng chỉ sự có mặt của tôi bên họ là đủ, tôi không cần phải làm gì nữa cả. Tôi rất cảm kích trước những lời đó nói, chúng truyền thêm sức mạnh cho tôi. Sự thường xuyên thăm viếng của các bác sĩ, sự tận tụy chăm sóc của các cô y tá đối với tôi, nói lên những cố gắng của họ để cứu tôi sống. Lúc đó, tôi thấy mình cần sống vì những người đó.

Trái với mọi điều lo sợ, tôi bình phục nhanh chóng. Sau đó, tôi phải thêm ba lần giải phẩu nữa, lần cuối cùng vào tháng 11 năm 1995. Trong cuộc giải phẩu đó đã có một việc lạ lùng xảy ra. Dầu lúc đó tôi đã được làm hôn mê, tôi bỗng nghe một bác sĩ nào đó la lên: "Trời ơi, phải làm điều gì đó nhanh lên!" Tôi cảm thấy như ông ở trước mặt tôi, dầu hai mắt tôi nhắm nghiền. Tôi nhìn thấy ông cố gắng trong tuyệt vọng để chích mủi kim vào gân tay tôi, và trong tình trạng đó, ông càng luống cuống thêm. Tôi cố gắng truyền cho ông sự bình tĩnh.

Các bác sĩ khác đứng quanh tôi tỏ vẻ bực bội, điều đó càng khiến vị bác sĩ gây mê thêm mất bình tĩnh. Sau đó ông chuyển sang tay phải của tôi, tìm được một đường gân có thể tiêm kim vào, ông thở phào. Điều đó chứng tỏ là mạch máu của tôi đã xuống rất thấp. Tôi nghe ai đó nói "tám mươi trên năm mươi" , con số đe dọa tính mạng người. Tôi cũng hoàn toàn cảm nhận được thân thể mình, nằm đó bất động, đồng thời tâm thức tôi như đã tách rời thân tôi, để nhìn xuống mọi thứ bằng con mắt quan sát. Tâm tôi rất bình tĩnh. Tôi chỉ cảm thấy tội nghiệp cho các vị bác sĩ, và tôi cố gắng giúp họ tìm lại được bình tĩnh.

Kể từ đó, những gì tôi đã trải qua, những gì tôi tiếp tục trải qua là quà tặng của cuộc đời. Đáng lý ra cuộc đời tôi đã phải chấm dứt, vậy mà tôi vẫn còn đây thêm một thời gian nữa, giờ đã là bốn năm hơn, để có thể hoàn thành thêm một số công việc -rõ ràng đó là một món quà to lớn.

Tôi sử dụng thời gian còn lại của tôi rất chọn lọc; tôi chỉ làm những việc đối với tôi là quan trọng và hữu ích. Điều đó không có nghĩa là tôi cho phép mình được thụ hưởng những sung sướng. Nhưng tôi chỉ làm những gì để giúp tôi và người khác thêm sức mạnh nội tại, những gì mang lại niềm vui, đem lại lợi ích.

Năm 1993, chúng tôi được báo đài biết đến. Đầu tiên là Zweites Deutsches Rundfunk, một đài truyền hình lớn ở Đức mời tôi nói chuyện. Sau đó một bài báo trên trang ba của tờ Suddeutschen Zeitung, một tờ báo lớn ở miền Nam nước Đức lại nói về chúng tôi, rồi hình ảnh của tôi được phát trên nhiều đài, nhiều buổi nói chuyện được phát thanh, vân vânĐặc biệt là một cú điện thoại của con gái bác tài xế của tôi thời thơ ấu. Cô đã xem chương trình về tôi trên truyền hình, và gần té xỉu như thấy hình của ba cô trên màn ảnh. Sau đó cô cũng ghi tên học một khóa tu thiền với tôi. Điều làm tôi vui nhất là cô còn nhớ cha mẹ tôi. Ngoài cô ra, chắc không còn ai ở Đức biết đến họ. Cô nhớ về cha mẹ tôi như những người rộng lượng, luôn sẳn sàng giúp đở người khác.

Nhưng điều trọng đại nhất mà các chương trình truyền hình này đã tạo được là mang đến một luồng gió Phật pháp tươi mát, nguyên thủy cho phương Tây, dầu đã hơn hai mươi ngàn năm đã qua, giáo lý của Đức Phật mới đến được trái tim của bao người ở đây.

Tôi thường nghe các Phật tử Á châu bảo rằng người Tây phương khó tọa thiền. Điều đó không đúng. Sau hơn hai mươi hai năm giảng dạy, tôi đã nhận thấy các đệ tử phương tây của mình đều có khả năng tu học và hành thiền mà không gặp trở ngại gì. Bất cứ ai đã dốc tâm tu thiền, sau một thời gian tu tập, sẽ thấy được rằng họ có thể trụ tâm vào một điểm.

Tôi đã dùng rất nhiều phương phápThí dụ, tôi đã dạy họ chú tâm chánh niệm vào hơi thở, hay biết và làm chủ các vọng tưởngNgoài ra tôi còn dạy về thiền hànhphương pháp 'từng bước, từng bước". Phương pháp này liên quan đến việc kiểm soát các cảm thọ, các dấy khởi của cảm thọ, là một phương pháp quan trọng trong việc thanh tịnh hóa tâm. Một phương pháp trọng yếu nữa là quán từ bi, trong phương pháp này tôi dùng những hình ảnh đa dạng khiến ai cũng có thể mở rộng tấm lòng ra với người khác. Trong các khóa tu của tôi, tôi hướng dẫn cho các học viên những phương pháp quán tưởng để có thể dẫn dắt họ vào những thực trạng của nội tâm. Bằng những phương pháp truyền thống này, tâm họ dần trở nên bình lặng, tạm thời quên đi thế giới bên ngoài.

Giáo lý quan trọng nhất, mà hình như chỉ có tôi đề cập đến ở châu Âu, là những hướng dẫn về các trạng thái thiền định, là điều người ta chỉ có thể đạt được trong một trạng thái hoàn toàn chú tâm. Ở Á châu, cũng như ở Mỹ và Uùc, chỉ có các đệ tử của tôi và hai vị giảng sư nữa là còn đề cập đến các trạng thái thiền định này. Nhưng chính các trạng thái này mới là thiền quán chân chính. Chính Đức Phật đã dạy về những điều này; Ngài đã hành trìtán thán các phương pháp này. Những trạng thái này mang tâm đến các tầng khác của tâm thức, khiến cho cái nhìn của ta được mở rộng, khiến ta có thể nhìn thấy được quá trình tạo ra vũ trụ. Chúng là phương tiện để đạt đến cứu cánh của sự tự do tuyệt đối, thoát khỏi các áp lực, phiền nãochấp ngã, đưa đến giải thoát.

Bất cứ ai tu tập với lòng kiên nhẫn sẽ đạt được trạng thái chú tâm thiền định. Qua đó, họ có thể tìm ra con đường đi vào không gian nội tại nơi chỉ có sự thanh tịnhtrí tuệ ngự trị. Lúc đó chúng ta sẽ có khả năng để quan sát về tự ngã cũng như về những phiền não của chúng ta một cách khách quan hơn. Qua sự tu chứng được các trạng thái của tâm thức, ta sẽ có cái nhìn mới về thế giới mình đang sống.

Bên trong thiền đường ở Buddha-Haus, có một bức tượng cổ hơn hai trăm năm của Đức Phật bằng gỗ cứng, có nguồn gốc từ Thái Lan, dù rằng chúng tôi đã thỉnh ở Kempten, một thành phố lớn ở Allgau. Trên thân tượng người ta phủ vàng lá, là một phong tục cổ truyền ở các nước Phật giáo Á châu để tỏ lòng kính trọng. Tôi thường ngồi dưới chân tượng để thuyết pháp. Tôi thường bắt đầu bằng, thí dụ như: "Tôi muốn nói với các bạn về ba đặc tính của cuộc sống -về khổ, vô thường và vô ngã".

Nhìn vào sự bất động, chú tâm của khán giả, tôi biết là họ đã sẳn sàng theo tôi trên con đường vào nội tâm, con đường đến sự thật ban đầucon người hiện đại với bao lo lắng, bất an, đã đánh mất chúng. Trong thế giới vật chất, nhiều người không còn biết rõ mục đích, ý nghĩa của cuộc đời là gì, và họ chỉ biết thõa mãn các ái dục, không cần biết chúng có thực sự mang đến hạnh phúc cho họ không.

Một trong những vị thầy lớn của thời đại chúng ta là một vị lão hoà thượng ở Thái Lan, Ngài Ajahn Chah, người có rất nhiều đệ tử người Tây phương, và vừa mất cách đây vài năm. Ngài thường nói về ba đặc tính của sự hiện hữu -khổ, vô thường và vô ngã- bằng câu chuyện so sánh như sau.

Ngài nói: "Hãy nhìn ly nước đây. Nó rất có ích cho tôi. Tôi có thể dùng để uống nước. Khi để nó dưới ánh sáng mặt trời, nó chiếu ra những tia sáng đẹp đẽ. Khi tôi gõ muổng vào đây, nó cho ra những âm thanh vui tai. Nhưng khi nó rơi xuống đất, nó vỡ tan. Đối với tôi, nó đã vỡ ngay từ bây giờ. Đối với tôi, tất cả mọi thứ có mặt trong hiện tại, hay sẽ có mặt, đều đã bị hủy diệt".

Câu chuyện đó rất có ý nghĩa với tôi. Ly nước của tôi cũng đã bể. Năm 1993, đối với tôi, cuộc sống của tôi như đã chấm dứt. Nhưng nó vẫn còn đây, thân của tôi lại còn đây, tôi còn sử dụng nó, nhưng nó không có nghĩa gì đối với tôi hơn là một chiếc ly đã bể.

Kể từ đó, bất cứ việc gì tôi làm cũng đã mất đi sự bám víu, chấp chặt. Tôi làm việc này việc nọ chỉ vì chúng có ích lợi. Tôi sung sướng vì còn có thể nhìn thấy công việc của tôi phát triển thêm một thời gian nữa. Nhưng khi chúng chấm dứt cũng chẳng có gì là quan trọng. Mọi chuyện đều đã xảy ra.

Đức Phật đã có nói Phật pháp sẽ được phát triên ở những xứ sở khi con trai, con gái của những gia đình tử tế trong xứ sở đó, được thọ giới bằng chính tiếng mẹ đẻ của mình. "Gia đình tử tế" ở đây không phải là những gia đình giàu sang, danh vọng, mà trong một gia đình tử tế, con cái biết cư xử phải đạo.

Vì việc di chuyển trở nên khó khăn cho tôi, thầy Nyanabodhi thường đi theo để giúp đở tôi. Đó là khi tôi về California để dự đám cưới của đứa cháu ngoại lớn nhất, Matthew, hay khi tôi đi San Francisco để mở khóa tu thiền, hoặc khi tôi đi Bá Linh, mùa hè năm 1995, trong khuôn khổ của chương trình Đại học Hoà Bình, tôi đã có nhiều bài nói chuyện ở đó; hay khi tôi đi Lindau để dự tuần lễ tâm lý trị liệu ở đó, nơi hai năm qua tôi đã có nhiều buổi thuyết trình, nhiều buổi thực tập ở đó. 

Tiếng vang của các chương trình truyền giáo của tôi khiến tôi nảy ra ý định thành lập một trung tâm Phật giáo ở một thành phố ở Munich. Chúng tôi tìm được một chỗ rất ưng ý, một cửa hàng thực phẩm cũ với một căn phòng nhỏ kế bên ở Neuhausen, một khu phố yên tĩnh. Sau khi được sửa chữa hoàn toàn, nơi ấy đã trở thành nơi họp mặt của chúng tôi mỗi ngày với những thời khắc nhất định. Các đệ tử của tôi giảng dạy ở đó, kể cả Charlie và Norbert. Traudel dạy yoga mỗi tuần một lần, cô đã từng được huấn luyện về môn này.

Nhưng trước khi chết, tôi vẫn còn một hoài bảo muốn thực hiện: đó là xây dựng ở Đức một lâm tự viện theo truyền thống nguyên thủy, ở một nơi hẻo lánh trong rừng, đối nghịch với thế giới bên ngoài ồn ào, đầy bao cám dổ.

Đã có thời gian chúng tôi đến khu rừng Bavarian để tìm một miếng đất vừa ý. Và chúng tôi cũng đã tìm thấy được một nơi vừa ý; nhưng các điều lệ xây cất quá khó khăn nên sau nhiều tháng đấu tranh, chúng tôi đành phải bỏ cuộc.

Rồi vào tháng tám năm 1995, chúng tôi đã tìm được một nơi thật lý tưởng, khá gần, chỉ cách trung tâm Buddha-Haus khoảng nửa tiếng đồng hồ, ở độ cao khoảng một ngàn thước, dưới chân dãy núi Alps. Vào những ngày đẹp trời, ta có thể nhìn thấy các đỉnh núi phủ tuyết trắng rõ ràng trước mắt. Địa điểm này có bảy mẫu rưỡi đồng bằng và rừng, có sông chảy qua, có suối nước trong, và một ngôi nhà mười bốn phòng, ở chính giữa.

Ngôi nhà đó đã hơn ba trăm năm tuổi, trước là một quán trọ, nhưng đã xuống cấp khá nhiều. Chủ nó là những người đã cao tuổi, không còn khả năng chăm sóc nó nữa. Một ngân hàng đã rao bán đấu giá. Chúng tôi mua được khu đất này không thể nói là rẻ, nhưng cũng được giá hời.

Có thể đi qua một con đường riêng để đến nhà, nhưng vào mùa đông không ai cào tuyết cho sạch đường . Vì thế chúng tôi phải mua một xe chạy trên tuyết để đi trên con đường chỉ có một kílo mét rưỡi. Ở vùng này tuyết thường rơi kéo dài đến tháng tư. Tôi thường phải đi trên chiếc xe tuyết, giống như một chiếc xe gắn máy có bánh trượt tuyết. Những lúc đó tôi phải nắm chặt xe, nhưng cũng rất vui.

Kể từ tháng mười năm 1995, chúng tôi bận rộn sửa chữa lại toàn bộ ngôi nhà. Chính ra là thầy Nyanabodhi phải vất vả nhiều với nó. Nền mới, hệ thống sưỡi ấm mới, và hệ thống dây điện mới tất cả đều phải có người lo. Các vách tường không có hệ thống cách âm, các cầu thang lên tấm trần sắp đổ, mưa thì dột cả trần. Những ống cống quanh nhà cần phải đào, các máng xối hứng nước mưa đều phải thay.

Giờ thầy Nyanabodhi chỉ thích sống ở đó. Cũng may, các đệ tử của tôi có người là thợ chuyên môn trong các phần này, họ chỉ tính chúng tôi nữa giá. Các học viên khác thì đóng góp công sức hằng ngày, có khi hằng tuần lễDầu vậy, công trình sửa chửa cũng tốn khá nhiều. Nhưng nói chung, chúng tôi tự tin là có đủ sức để hoàn thành. Nhìn lại những việc như thế này, tôi nghiệm ra rằng bất cứ điều gì nếu người ta làm bằng tất cả lòng thành khẩn, và không vì tư lợi của riêng mình, thì công việc đó sẽ được thành công.

Quanh nhà, chúng tôi phải đốn khá nhiều cây cối để có ánh sáng và không khí, cũng như để có không gian cho một khu vườn. Một tu viện thực thụ lúc nào cũng cần có vườn với hoa, cây cỏ và một chiếc hồ nhỏ.

Theo chúng tôi, đây là một lâm tự viện đẹp quá sức tưởng tượng. Hơn nữa, đây lại là tu viện Phật giáo trong rừng (lâm tự viện) đầu tiên ở Đức, với tên gọi là Metta Vihara (hay là Ngôi nhà của Lòng từ bi). Mùa hè năm đó (1997) lễ khánh thành lâm tự viện đã được tổ chức. Tu viện này là nơi người ta có thể đến để tìm sự yên tĩnh, khám phá kinh nghiệm được trở về với chính mình. Khi muốn “tu một thời gian ngắn", người ta có thể thu xếp với tu viện để được đến ở đây ít nhất là một tháng.

Dĩ nhiên, nếu muốn, người ta cũng có thể xuất gia, sau khi đã ở đó ít nhất là một năm và nhận thấy rằng việc phát triển tâm linh mới là mục đích chánh yếu nhất trong cuộc đời.

Matthias, một luật sư ở Konstanz, bên hồ Constance, giờ đã trở thành Nyanacitta, và là cánh tay mặt của Nyanabodhi. Anh nhúng tay vào tất cả mọi thứ, từ sơn cửa đến đóng bàn ghế, từ đi mua sắm đến thăm viếng các nhóm thanh niên, rồi dạy học ở thành phố. Ngay năm đầu tu tập, anh đã thề nguyện làm tu sĩ, tháng sáu này, anh ta sẽ được xuất gia làm sadi.

Chừng nào còn khả năng, tôi còn ở lại tu viện này để giảng dạy. Chừng nào hãy hay, giờ thì chúng tôi còn đang lo lựa chọn màu cửa sơn, hay đóng vách tấm trần như thế nào. Ngay hiện tại, đó là những vấn đề bức thiết của chúng tôi.

Tôi rất vui mừng là vẫn còn có thể bắt tay xúc tiến đề án này, và sẽ còn nhìn thấy ngày nó được hoàn thành. Trong hai mươi năm qua tôi có cảm giác là mình không định trước gì cả, mà chỉ đi theo hướng người ta vạch ra cho tôi -cái hướng mà tôi phải theo để có thể làm được những chuyện phải làm. Vì thế tôi nghĩ là tôi đã có mặt ở đúng nơi, đúng lúc, đúng thời để mang đến cho nước Đức những gì họ đang rất cần.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8027)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35565)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19702)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11713)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23200)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5850)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10626)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10363)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10064)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20873)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6209)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6860)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8900)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18163)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6737)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6558)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13024)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5876)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7896)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10210)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7879)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9878)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24557)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36416)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11555)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10050)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10010)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7889)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9374)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8667)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6910)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12326)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5802)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13003)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14578)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12445)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10959)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16717)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8487)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11358)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7050)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46724)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13513)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8401)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17861)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18185)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15809)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6963)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31259)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9585)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21633)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33330)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33056)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41424)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40365)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20062)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29686)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18883)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22728)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22452)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49017)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11974)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11168)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18010)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15120)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19727)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant