Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

3. Trốn ra ngoài biên cương

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5046)
3. Trốn ra ngoài biên cương

ÐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH

Võ Ðình Cường
(In lần thứ ba, năm 2000 TP. Hồ Chí Minh)

TRỐN RA NGOÀI BIÊN CƯƠNG

Ngài Huyền Trang rời Tràng An với một nhà sư là Hiếu Ðạt. Vị sư này quê ở Tần Châu, trở về làng sau một thời gian lưu học tại Tràng An. Huyền Trang đến Tần châu (nay là huyện Thiên Thủ thuộc Cam Túc) trọ lại một đêm, rồi theo một người bạn khác đến Lan Châu (nay là huyện Cao Lan thuộc Cam Túc). Ðến đây, Ngài cũng chỉ trọ lại một đêm. Sáng sớm, nhân có người giữ ngựa của quan cai trị Lương Châu (này là huyện Vũ Uy, tỉnh Cam Túc) dắt ngựa trở về huyện, Ngài theo người này đến Lương Châu. Lương Châu là đô thị lớn đất Hà Tây, yếu địa quốc phòng miền Tây của triều Ðường. Quan đô đốc Lý Ðại Lượng trấn thủ vùng ấy vâng sắc lệnh nghiêm cấm nhân dân đi về phía Tây. Huyền Trang ở lại Lương Châu đến một tháng, chưa biết làm thế nào để trốn ra khỏi cửa thành. Một buổi sáng, thừa cơ lính giữ cửa thành lơ đễnh. Ngài lẩn ra khỏi thành đi về phía Tây. Không rõ vì ai báo tin, sự trốn thoát của Huyền Trang bị Lý Ðại lượng biết được; viên quan có cái tên Ðại Lượng, mà lại không đại lượng chút nào này, lập tức ra lệnh cho vệ binh đuổi theo để bắt lại. May thay, một pháp sư tên là Tuyệt Uy, nghe thấy Huyền Trang có chí lớn đi Tây du cầu pháp, rất lấy làm khâm phục, mật sai hai đệ tửTuệ Lâm và Ðạo Chỉnh dẫn đường cho Ngài đi. Bấy giờ, ba nguời, ban ngày phải lẩn lút, ẩn núp, ban đêm mới dám đi. Họ ngủ trong cỏ rác, nằm dưới sương lạnh, chịu đựng bao nhiêu khó nhọc mới lần hồi đi đến được Trường Dịch, ra khỏi cửa Gia Cốc, đến Qua Châu (huyện Tây An tỉnh Cam Túc bây giờ). Khi nghe tin Ngài đến, quan Thứ sử Qua Châu là Ðộc Cô Ðạt, một tín đồ Phật giáo, không làm khó khăn gì đối với Ngài. Ông ta cho Ngài biết con đường đi về phía Tây khó khăn như thế nào: Từ Qua Châu đi về phía Bắc 50 dặm, có con sông Qua Lô, phía dưới rộng, lòng sông sâu, nước chảy xiết không thể qua được; phía trên hẹp, nhưng lại có đồn trấn thủ đóng, gọi là đồn Ngọc Môn Quan. Muốn đi về phía Tây, tất phải qua đó. Ra khỏi Ngọc Môn Quan, lại phải đi qua năm tòa phong hỏa đài, mỗi đài cách nhau vào khoảng 100 dặm, có quân đội canh giữ. Những đài này xây bằng đá, chỉ phụ cận đồn mới có nước và một ít cây cỏ, ngoài ra là những bãi cát mênh mông. Qua Phong hỏa đài thứ năm là đến địa phận nước Y Ngô (hay là huyện Cáp Mật, xứ Tân Cương).

Ngài Huyền Trang không may con ngựa của mình vừa bị chết, trong hai đồ đệ đi theo thì Ðạo Chỉnh đã trở về Ðôn Hoàng, còn Tuệ Lâm thì cũng tự nhận thấy không thể đi xa hơn được nữa. Nay lại nghe quan Thứ sử Qua Châu cho biết con đường đi khó khăn, trở ngại như thế, Ngài đau xót vô cùng. Thêm vào nỗi đau xót ấy, tờ truy nã của Ðô đốc Lý Ðại Lượng ở Lương Châu lại đến nơi! Tờ trát viết: "Nghe có thầy tăng là Huyền Trang muốn sang Tây phương. Vậy sức cho châu, huyện các nơi phải nghiêm nhặt xét hỏi mà bắt giữ lại".

Người lại thuộc ở Qua Châu là Lý Xương lén đem tờ truy nã ấy đến hỏi Ngài:

–Thầy có phải là Huyền Trang không?

Ngài lo ngại bất trắc, chưa trả lời, thì Lý Xương lại nói tiếp:

–Thầy phải nói thực, nếu mà đúng là thầy, đệ tử sẽ liệu cho.

Ngài đành phải nhận mình là Huyền Trang. Lý Xương lấy làm thán phục khen ngợi Ngài rối rít và nói:

–Pháp sư đã có chí nguyện lớn lao, đi được như thế này thì tôi xin vì Pháp sư bỏ tờ điệp này đi.

Nói xong, Lý Xương xé ngay tờ điệp trước mặt Ngài và giục:

–Pháp sư liệu mà đi cho sớm.

Nhưng Huyền Trang chưa đi ngay được! Con ngựa Ngài đã chết, chưa mua lại được, và cũng chưa tìm ra được người dẫn đường.

Một hôm, Ngài đang đi qua đi lại trước cửa chùa, lòng bồn chồn lo nghĩ về việc ra đi, thì có một tín đồ người giống Hồ ( dân bản xứ) đến chùa lễ Phật. Người này họ Thạch tên Bàn Ðà. Trong lúc trò chuyện Thạch Bàn Ðà tình nguyện thụ giới làm đệ tử Ngài. Huyền Trang ưng cho. Bàn Ðà mừng rỡ ra về, chốc lát trở lại đem quà bánh dâng cúng Ngài. Thấy người đệ tử mới thân hình tráng kiện, cử chỉ cung kính, Huyền Trang ngỏ ý sắp đi cho người ấy biết, Bàn-đà sốt sắng tình nguyện xin hộ tống Ngài đi. Huyền Trang quá đỗi mừng rở, sắm áo quần hành trang cho Bàn Ðà và mua hai con ngựa cùng hẹn ngày lên đường.

Ngày hôm sau, chú tiểu Hồ ấy lại cùng một ông già người Hồ cưỡi một con ngựa hồng, già và gầy đến. Bàn Ðà nói:

–Ông già này rất thuộc đường đi Tây phương, kể ra đã đi lại nước Y Ngô trên ba chục lần. Vậy nên đệ tử mời lão đến đây để hầu chuyện với thầy.

Ông lão lấy tình thật, khuyên Huyền Trang đừng đi. Ông nói:

–Ðường sá đi về phía tây rất hiểm ác, trong bãi sa mạc dài tám trăm dặm ở nước Y Ngô, trên không có chim bay, dưới không có thú chạy; rủi gặp bảo cát thì không thể còn tánh mạng. Người ta kết đoàn, kết lũ, còn lo lạc nhau, huống chi nhà Sư đi có một mình, thì làm sao đi được? Xin tự liệu trước chớ để hoài mất tánh mạng.

Huyền Trang trả lời:

–Cám ơn ông đã chỉ bảo. Nhưng chí tôi đã quyết sang Tây phương để cầu Phật Pháp, nếu không đến được Aán Ðộ, thì nhất định không trở về đây nữa. Túng sử chết ở giữa đường tôi cũng không ân hận.

Ông già thấy sự kiên quyết của Huyền Trang, biết không thể lay chuyển được lòng Ngài, nên đề nghị đổi con ngựa già của mình đang cưỡi cho Ngài:

–Nhà sư đã nhất quyết ra đi, thì tôi không cản nữa, nhưng hãy lấy con ngựa già này của tôi mà cưỡi. Tuy nó già, nhưng nó khỏe, giai sức và lanh lẹ. Nó đi qua lại nước Ý Ngô này hơn mười lần rồi nên nó thuộc đường lắm. Còn ngựa của nhà sư không kinh nghiệm, sợ không đi được.

Huyền Trang nghe theo, đổi ngựa của mình cho ông lão. Ông già mừng rỡ kính chào từ biệt.

Chiều ấy hai thầy trò sửa soạn hành lý, đến tối thì ra đi. Ðến canh ba Huyền Trang và Bàn Ðà đi đến bờ sông Qua Lô. Trông xa đã thấy Ngọc Môn Quan. Ở thượng lưu, cách phía trên cửa quan độ mười dặm, hai bờ sông hẹp lại chỉ còn độ một trượng, trên bờ có mấy cây ngô đồng thẳng vút. Hai thầy trò đến đấy, chặt cây làm cầu, trải cỏ rác lên trên để dắt ngựa qua. Người ngựa qua sông được bình yên. Huyền Trang khoan khoái mở yên ngựa và trải đệm ra nằm nghĩ. Tiểu Hồ nằm cách Ngài độ năm chục bước. Hừng sáng, nó rút dao đi nhè nhẹ đến phía Huyền Trang. Còn cách độ mười bước nó dừng lại, rồi quay trở lui, nằm xuống ngủ lại.

Huyền Trang nhận thấy, nhưng làm ra vẻ thản nhiên không hay biết gì cả. Ðến sáng, Ngài thức nó dậy, bảo đi lấy nước súc miệng, rửa mặt để sửa soạn lên đường. Nó làm một cách miễn cưỡng. Lúc gần ra đi, nó nói:

–Ðệ tử thấy đường đi còn xa mà hiểm nghèo lắm; lại không có nước cỏ gì cả. Nếu muốn có nước và cỏ thì phải đến gần các vọng canh lấy trộm. Nhưng nếu lính gác vọng canh mà biết được thì tánh mạng thầy trò chúng ta cũng không còn. Chi bằng trở vềyên ổn hơn cả.

Huyền Trang nhất định không nghe. Bàn Ðà nói:

–Nếu thế thì đệ tử không đi theo được vì việc nhà còn bận nhiều, mà phép vua đệ tử cũng không dám xúc phạm.

Huyền Trang thuận cho nó trở về Qua Châu một mình, nhưng nó trù trừ không chịu trở lui. Hồi lâu nó nói:

–Sư phụ đi, nếu bị người ta bắt được mà cung xưng thật họ tên tôi ra, thì vợ con và cả nhà tôi ra thế nào?

Huyền Trang chỉ lên trời mà thề rằng:

–Nếu chẳng may ta bị bắt, người ta băm vằm ta ra làm muôn mảnh, ta cũng nhất thiết không nói rõ họ tên người ra, người hãy yên tâm.

Ðược lời cam kết ấy, Bàn-đà mới yên tâm vỗ ngựa quay về.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17662)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24501)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26026)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13781)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13185)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22072)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19081)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10007)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11920)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13045)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15198)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10543)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21836)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10139)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9851)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9754)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10194)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27455)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17847)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13201)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25170)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34680)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26772)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19077)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9010)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13091)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9012)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9457)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9144)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11800)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18528)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8787)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10673)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10962)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28007)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17880)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14416)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16367)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13211)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15546)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14699)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7603)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17058)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8398)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30730)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant