Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Qua năm phong hỏa đài và sa mạc Qua Bích (Gobi)

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4975)
4. Qua năm phong hỏa đài và sa mạc Qua Bích (Gobi)

ÐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH

Võ Ðình Cường
(In lần thứ ba, năm 2000 TP. Hồ Chí Minh)

QUA NĂM PHONG HỎA ÐÀI VÀ 
SA MẠC QUA-BÍCH (GOBI)

Từ đây, một mình một ngựa, Ngài Huyền Trang bắt đầu đi vào sa mạc mênh mông: một bể cát rộng lớn, không biết đâu là bờ bến, sóng cát nhấp nhô, lỗi lõm, không có lối đi, chỉ lần theo những đống xương khô cùng phân ngựa, lạc đà mà tiến bước. Ngựa đi từng bước chậm chạp khó khăn trong gió cát. Từng hồi, Ngài thấy hiện ra trước mắt mình hàng trăm ngàn binh mã ở phía chân trời, khi thì tiến lên, khi thì dừng lại. Những binh lính ấy ăn mặc theo rợ Qua Bích; lạc đà và ngựa trang bị lộng lẫy, giáo mác sáng lòa. Trong chốc lát binh đội ấy biến đâu mất cả, rồi những hình tướng quái dị khác lại hiện lên, nhưng khi đến gần lại không thấy đâu nữa! Ngài Huyền Trang tưởng mình đang bị đạo quân của Ma vương khuấy rối. Nhưng không, đây chỉ là những ảo ảnh của sa mạc, do hơi nóng gây ra. Trước những cảnh tượng ấy, Ngài không chút sợ hãi, tự bảo: "Chết ta chẳng sợ, còn sợ cái gì?"

Ði được tám chục dặm, Ngài trông thấy từ xa tòa phong hỏa đài thứ nhất hiện ra. Sợ đi giữa ban ngày lộ tông tích, Ngài ẩn núp ven một cái khe cát, đợi tối mới tiếp tục đi.

Khi hoàng hôn xuống, Ngài dò lần đến bên phong hỏa đài, thấy có một ao nước trong. Ngài xuống ngựa, cúi lấy cái túi bằng da định múc nước, thì một mũi tên bay qua đầu, và tiếp theo một mũi tên khác gần trúng đầu gối. Nhận thấy hành tung mình đã bị bại lộ, Ngài kêu to:

–Xin đừng bắn tôi! Xin đừng bắn tôi! Tôi là nhà sư ở Tràng An đến đây.

Nói xong Ngài dắt ngựa đến bên cửa thành. Bọn lính mở cửa thành và dẫn Ngài vào hội kiến với quan Hiệu úy là Vương Tường.

Vương Tường cũng là một Phật tử. Sau khi xét hỏi xong, biết được chí nguyện cao cả của Ngài, viên quan này rất lấy làm khâm phục. Nhưng nhận thấy đường đi khó khăn, Vương Tường có ý mời Ngài về trụ trì tại một ngôi chùa ở Ðôn Hoàng, là quê hương của mình. Ngài trả lời:

–Từ nhỏ, bần tăng đã dốc lòng theo đạo Phật. Trong hai kinh đô Lạc DươngTrường An những cao tăng, đại đức không nề hà khó nhọc để khai thị cho bần tăng nghiên tầm giáo pháp. Bần tăng đã khổ công tu học đến nay, thật không dám dối gì Hiệu úy, bần tăng cũng là một danh tăng của Trung Hoa. Nay để trau dồi thêm trí đức, có lý nào bần tăng lại đến Ðôn Hoàng để chôn lấp cuộc đời ở một ngôi chùa nhỏ hay sao?

Sau khi đã viện lý lẽ vững chắc ấy, Huyền Trang lại tấn công viên Hiệu úy về mặt tình cảm và gợi lên mối ưu tư của một Phật tử đối với tiền đồ của Phật giáo nước nhà:

–Từ lâu, bần tăng đã xót xa cho sự thiếu sót về kinh điển và sự phiên dịch kém khuyết của kinh sách Phật giáo nước nhà. Bần tăng đã nguyện hy sinh thân mạng, không quản ngại gian nguy để sang Ấn Ðộ thỉnh kinh mà đức Bổn Sư đã để lại. Ðáng lẽ ngài phải khuyến khích bần tăng mới phải, có lý nào ngài khuyên bần tăng trở lại nước nhà?

"Ngài bảo là ngài cũng chia sẻ với bần tăng lòng từ bi đối với chúng sinh đang lặn hụp trong bể sinh tử luân hồi và sẵn sàng giúp bần tăng để tìm phương thuốc giải thoát cho nhân loại, thì sao ngài còn buộc bần tăng phải ở lại hay trở lui về Tràng An? Nếu ngài nhất quyết không cho đi, thì bần tăng xin nhận hết hình phạt, chứ nhất quyết không lùi một bước nào về phía đông".

Hiệu úy Vương Tường vừa đuối lý, vừa cảm động trước ý chí sắt đá ấy, giữ ngài lại một đêm. Ðến sáng hôm sau, Vương Tường biếu Ngài nước uống, lương khô và thân hành tiễn Ngài ra ngoài 10 dặm. Trước khi từ giã, Vương Tường còn căn dặn:

–Pháp sư cứ theo đường tắt này mà đi thì sẽ đến tòa phong hỏa đài thứ tư. Quan Hiệu úy giữ đài là Vương Bá Lung, là người nhà tôi, tâm địa lương thiện. Pháp sư đến đó, nói là tôi đưa đến, chắc Bá Lung sẽ giúp đỡ cho pháp sư.

Hai người rơi lệ từ giã nhau. Ðến chiều, Huyền Trang đến được phong hỏa đài thứ tư. Sợ người giữ đồn làm khó cầm giữ lôi thôi, Ngài định lén lấy trộm nước rồi trốn đi. Trong khi đang lấy nước, một mũi tên ở đâu bay ngang đầu, Ngài đành phải kêu lên như lần trước, lính canh dẫn Ngài đến yết kiến quan Hiệu úy là Vương Bá Lung. Sau khi nghe Ngài kể sự tự, Vương Bá Lung biếu Ngài một túi da đựng đầy nước, lương khô, cỏ cho ngựa, và dặn Ngài:

–Quan Hiệu úy đồn thứ năm tánh khí hung bạo, khó lường được sự bất trắc, vậy Pháp sư nên tránh đồn thứ năm, đi đường khác, thẳng đến suối Dã Mã. Từ suối Dã Mã lại đi về phía Tây là đến Mạc Hạ Duyên Tích. Ðường này dài 800 dặm, tên là Sa Hà (Sông Cát, tức là sa mạc Qua Bích – hay là Gobi ngày nay). Ðường này rất nguy hiểm, không một giọt nước, một ngọn cỏ, cát nóng như lửa, Pháp sư phải nên muôn ngàn lần cẩn thận.

Ngài Huyền Trang từ biệt Vương Bá Lung, đi vào trong biển cát, nhắm suối Dã Mã và Mạc Hạ Duyên Tích mà đi. Trừ Ngài và con ngựa, sự sống chết lịm ở nơi đây: không một bóng chim, một vết thú, một ngọn cỏ, một giọt nước! Bão cát rơi xuống như mưa giông, đánh vào mình Ngài và ngựa nghe rào rào. Từng đám mây cát bay lại, mờ mờ mịt mịt, che lấp cả chân trời. Ngài đi suốt ngày gần được một trăm dặm, nhưng không tìm được suối Dã Mã. Thì ra Ngài đã lạc đường! Ngài mệt nhừ, xuống ngựa, lấy túi nước ra uống. Nhưng túi nước của Vương Bá Lung mới tặng to nặng quá, mà Ngài thì đuối sức sau một ngày xông pha trong bão cát, nên tuột tay, đánh đổ túi nước xuống cát! Thật là một tai họa lớn lao nhất của người đi qua sa mạc. Mỗi giọt nước là một giọt máu. Ngài thấy tất cả sinh lực, cuộc đời, bao nhiêu hy vọng đều bị cái khát khao của sa mạc hút mất trong nháy mắt theo với túi nước! Ngài buồn rầu, lên ngựa quay lui, định bụng trở về tòa phong hỏa đài thứ tư để lấy nước. Ngài theo phương Ðông đi được 10 dặm, bỗng hồi tâm nghĩ lại:

"Ta đã phát nguyện nếu không đến được Tây Trúc thì không lui về đông một bước nào. Nay sao ta lại quay lui? Thà đi sang phương Tây mà chết, còn hơn là quay về hướng Ðông mà sống".

Lập tức Ngài quay ngựa nhắm về phương Tây thẳng tiến. Trời đã tối hẳn. Bốn bề mù mịt; những đốm lửa ma trơi lập lòe đây đó. Gió bão vẫn chưa ngừng. Trận mưa cát vẫn tiếp tục xối xuống. Nhưng Huyền Trang lòng vẫn vững vàng như bàn thạch, không chút sợ hãi, nao núng. Ngài vừa đi vừa đọc kinh Bát Nhã. Ngài đi suốt bốn đêm năm ngày, một giọt nước cũng không có ở trong cổ họng. Ban đầu chỉ thấy môi lưỡi khô khan, sau cảm thấy toàn thân nóng rát, thở ra hít vào đều đau đớn khó chịu. Mồm khô ruột cháy, đến mắt cũng khô ráo, không mở ra được. Con ngựa cũng cứng đờ, không bước nổi. Người và ngựa nằm vật ra trên một phiến đá. Nhưng mặc dù đã kiệt lực. Ngài không ngớt niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm Bồ-tát. Ngài khấn:

"Lạy đức Quán Âm! Trong chuyến đi này, con không vì giàu sang chức tước. Con chỉ đi cầu Pháp, độ sanh. Ngài hãy thương xót con, như đã thương xót bao nhiêu quần sanh chìm đắm trong biển khổ, rủ lòng từ bi cứu vớt con ra khỏi bước cùng này".

Ngài cầu nguyện như thế cho đến nửa đêm thứ năm. Bỗng một trận gió mát tê người thổi đến, như một thùng nước lạnh dội lên toàn thân, Ngài dần dần hồi phục, mắt mở ra được, con ngựa cũng đứng lên được. Thấy dễ chịu trong mình, Ngài nằm thiu thiu ngủ. Ðược một chốc, bỗng Ngài mộng thấy một người cao lớn dị thường, tay nắm cờ, tay nắm giáo đứng trước mặt Ngài, nạt lớn:

–Tại sao không mau mau tinh tấn lên đường mà còn nằm ngủ nữa!.

Ngài vùng đứng dậy, hối hả lên đường. Con ngựa gắng gượng đi được năm sáu dặm đường, bỗng nó quay sang lối khác, chạy hăng lên, Ngài không làm sao cản lại được. Biết chắc con ngựa đã nhận ra đường cũ, Ngài cứ để cho nó đưa đi. Một chốc, Ngài nhận thấy một khoảnh đất có cỏ xanh biếc. Giữa đám cỏ ấy có một giòng suối ngọt, trong vắt. Ngài mừng quá, vội nhảy ùm từ trên mình ngựa xuống khe nước, người và ngựa uống no nê, chê chán rồi nằm trên cỏ ngủ suốt một ngày. Hôm sau, Ngài lại tiếp tục đi. Sau hai ngày nữa, Ngài mới ra khỏi sa mạc Mạc Hạ Duyên Tích (Qua Bích) và đến địa giới nước Y Ngô.

Tính ra Ngài đã đi qua tám trăm dặm trên sa mạc Qua Bích (Gobi).

Vào nước Y Ngô, Ngài Huyền Trang đến trọ ở một ngôi chùa cổ. Trong chùa có ba vị sư Trung Hoa. Vị già nhất, nghe tin Ngài đến, không kịp đắp y, chạy chân không ra đón Ngài, nghẹn ngào nói giọng đầy nước mắt:

–Nào ngờ ở chốn này mà còn gặp được người cố hương".

Huyền Trang cũng không cầm được lệ.
Ý kiến bạn đọc
08 Tháng Mười Một 201412:36
Khách
Ngai huyen trang
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 17662)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 24505)
13 Vị Tổ Tịnh Độ Tông Trung Hoa - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 26029)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 13782)
Hòa Thượng THÍCH BẢO AN, húy thượng THỊ hạ HUỆ tự HẠNH GIẢI, thế danh LÊ BẢO AN, thuộc đời Lâm Tế Chánh Tông thứ Bốn mươi hai.
(Xem: 13185)
Ngoài những chứng ngộ Mật thừa, rõ ràng ngài là một hành giả Đại thừa, một yogi có chứng ngộ Bồ Đề tâmchứng ngộ không thể sai lầm về tánh Không.
(Xem: 22073)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 19081)
Như là một món quà cho những ai thích thú chuyên tâm vào dòng Karma Kagyu và ngưỡng mộ Gyalwa Karmapa mà chúng tôi đã thu góp và dịch ra câu chuyện của mười sáu hóa thân của Karmapa.
(Xem: 10009)
Các đóng góp tri thức mang tính toàn cầu của các học giả Anh quốc đã góp phần to lớn trong việc giúp cho cộng đồng thế giới biết rõ được con đường minh triết cũng như các giá trị văn hóa...
(Xem: 11921)
Giáo sư Trần Phương Lan – Pháp danh Nguyên Tâm - nguyên Phó trưởng khoa Phật Pháp Anh Ngữ tại Học Viện Phật giáo Việt Nam
(Xem: 13045)
Mục đích của quyển sách nhằm giới thiệu cuộc hành hương thỉnh Kinh đơn thân độc mã đầy uy dũng của vị cao tăng HUYỀN TRANG. Ngài phải đi qua một lộ trình thăm thẳm diệu vợi...
(Xem: 15198)
Hòa Thượng Thích Trí Chơn, thế danh Trương Xuân Bình, sinh ngày 20 tháng 11 năm 1933 (Quý Dậu) tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận (Trung Việt)
(Xem: 10543)
Lochen đã gặp Lạt ma của cô vào mùa hạ. Vào mùa đông, Lạt ma đi từ hang động của ngài tới ni viện nhỏ ở gần đó, tại đó ngài ban các giáo lý rộng lớn.
(Xem: 21836)
Ni sư Ayya Khema viết quyển tự truyện này không vì mục đích văn chương, mà để chúng ta từ câu chuyện đời của Ni sư tìm được những bài học giá trị về con đường đạo Người đã đi qua.
(Xem: 10140)
Đại Đức Anagarika Dharmapala xuất hiện như một vì sao chói sáng trong lịch sử Tích Lan bởi lòng nhiệt tâm phục vụ cao cả và chân thành cho xứ sở Ấn Ðộ thân yêunhân loại.
(Xem: 9853)
Đại sư Huệ Năng ra đời năm 638, là vị Tổ sư đời thứ sáu (Lục Tổ) của Thiền tông Trung Hoa, và là một trong những vị Tổ sư được nhiều người biết đến nhất.
(Xem: 9755)
Luật sư Christmas Humphreys làm việc không mệt mỏi để mang ánh sáng của chánh pháp tỏa chiếu khắp Anh quốc và các quốc gia ở châu Âu...
(Xem: 10195)
Các tu sĩ Phật giáo không hề bị cám dỗ bởi những sở hữu vật chất cá nhân. Đức Đạt Lai Lạt Ma luôn lặp lại câu nói: “Tôi là một Tăng sĩ rất giản đơn”.
(Xem: 27456)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 17849)
Những câu chuyện về các vị đại sư tái sinh thuộc dòng Karma Kagyu mà chúng ta sẽ tìm hiểu trong phần sau đây sẽ là một sự minh họa sống động cho truyền thống tái sinh mà không ai có thể phủ nhận được.
(Xem: 13202)
Ngài Quảng Khâm xuất gia tu học tại chùa Thừa Thiên, Tuyền Châu, Phúc Kiến, Trung Quốc. Sau đó, Ngài đến Đài Loan hoằng phápxây dựng chùa Thừa Thiên Thiền Tự.
(Xem: 25173)
Với đạo Phật qua thời giankhông gian giáo thuyết của Phật vẫn không mai một mà còn được truyền bá ngày càng sâu rộng. Bởi lời Phật dạy là một chân lý muôn đời...
(Xem: 34680)
Trong suốt cuộc đời hóa độ, số người qui hướng về đức Thế Tôn nhiều đến nỗi không đếm hết được; riêng chúng đệ tử xuất gia, cả tăng lẫn ni, cũng phải hàng vạn.
(Xem: 26775)
Sức mạnh gia trì là làm thay đổi tâm niệm của người được gia trì. Gọi thần lực gia trì chủ yếu giúp người được gia trì an tâm, an thân vượt qua khó khăn...
(Xem: 19077)
Ngay từ khi Ngũ tổ Hoằng Nhẫn còn tại thế, ngài Thần Tú đã là một vị lãnh chúng, lãnh đạo cả một đồ chúng mấy trăm người và làm giáo thọ sư của họ.
(Xem: 9010)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VIII ra đời vào năm 1758 tại Thobgyal, Lhari Gang, thuộc vùng Tsang miền Tây Nam của Tây Tạng. Cha mẹ ngài là Sonam Dhargye và Phuntsok Wangmo.
(Xem: 13091)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ VI là một nhân vật bi thương trong nhiều khía cạnh. Ngài đã chống đối lại chức vụ cao trọng mà Ngài đã được sinh ra ở đó...
(Xem: 9014)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V chào đời vào năm 1617 tại Chingwoi Taktse thuộc huyện Chongyas trên vùng biên giới phía Đông của Tsang. Cha của Ngài là một viên quan cao cấp...
(Xem: 9457)
Trong suốt cuộc đời ngắn ngủi của mình, Ngài đã duy trì sự quan tâm chủ yếu vào những vấn đề tâm linhthể hiện được là một người có năng lực tâm linh đích thực.
(Xem: 9145)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ III là một người có năng lực tâm linh phi thường. Ngài đã lập nên sự nghiệp như một học giả lỗi lạc, một giáo sư, một nhà quản lý đầy tài năng...
(Xem: 11801)
Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng...
(Xem: 18528)
Đức Đạt-lai-lạt-ma đầu tiên đã thành công rực rỡ trong việc tiếp tục công tác do Ngài Tsongkhapa khởi xướng. Như đã đề cập, Ngài là một Tăng sĩ mẫu mực...
(Xem: 8788)
Visākhā là con gái nhà triệu phú Dhananjaya, rất giàu lòng quảng đại và cũng có tâm đạo nhiệt thành. Khi mới lên bảy, ông ngoại cô là triệu phú Menkada...
(Xem: 10674)
Có đôi khi trong cuộc đời, ta gặp được một người thật khác thường mà chỉ bằng con nguời bình thường của chính họ đã làm thay đổi hẳn cách sống của ta. Dipa Ma chính là mẫu người đó.
(Xem: 10966)
Đại sư TÔNG KHÁCH BA (1357-1419)- Dịch giả: Thích Hằng Đạt
(Xem: 28008)
A Dục Vương (Asoka) Cuộc ĐờiSự Nghiệp - Asoka, vị hoàng đế thứ ba của vương triều Maurya Ấn Độ, là một nhân vật lịch sử đã để lại cho nhân loại nhiều bài học lớn - Thích Tâm Minh
(Xem: 17881)
Kalu Rinpoche là một Đạo sư vĩ đại của Phật Giáo Tây Tạng. Trong bài tường thuật về tiểu sử của ngài, Dezhung Rinpoche, một Lạt ma cao cấp của phái Sakya đã viết:...
(Xem: 14417)
Như Áng Mây Bay là một phần thành quả của sự huân tập ý đạo, là một phần của cuộc hành trình đầy mạo hiểm mà ta gọi là kiếp người.
(Xem: 16368)
Nhiều thế kỷ trước, một vị vua đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lăng. Một hôm, vào năm 1293, vị vua anh hùng này đã rời ngôi vua...
(Xem: 13211)
Thành kính khẩn bạch đến chư Tôn Đức Tăng Già của quý Giáo Hội, quý Tự Viện, quý tổ chức Phật Giáo cùng toàn thể chư vị thiện nam tín nữ Phật tử: Đại Lão Hòa Thượng thượng Huyền, hạ Ấn, thế danh Hoàng Không Uẩn, sinh năm 1928 tại Quảng Bình, Việt Nam
(Xem: 15547)
Chân Nguyên chủ trương then chốt của việc đạt được giác ngộ là thắp sáng liên tục ý thức của mình về sự hiện hữu của tự tính “trạm viên” đó là nguồn gốc chân thật của mình.
(Xem: 14699)
Hòa Thượng THÍCH QUẢNG TÂM (1947 - 2010), húy Như Hảo, thế danh Lê Tấn Quang, sinh ngày 12 tháng 8 năm Đinh Hợi (1947) tại làng Thạch Trụ huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong một gia đình nhiều đời thâm tín Tam Bảo và có truyền thống xuất gia tu học.
(Xem: 7603)
Trong lịch sử đạo Phật có ghi lại chuyện một số các vị cưnổi tiếng, tuy các vị ấy không xuất gia nhưng về phương diện tu hành, thấu hiểu đạo lý thì không thua kém...
(Xem: 17060)
Khi nói tới Thiền tông thì tên tuổi của tổ Lâm Tế được nhắc nhở đến nhiều nhất vì dòng Thiền của tổ vẫn còn được truyền tiếp mạnh mẽ cho tới ngày nay.
(Xem: 8398)
Về tôn giáo, A Dục Vương chủ trương bao dungtôn kính tất cả mọi tôn giáo cùng giúp đỡ cho các đạo giáo phát triển. Riêng với Phật Giáo, nhà vua tích cực bảo vệ...
(Xem: 30732)
Tổ Hoàng Bá (?-850) pháp danh Hy Vận, người tỉnh Phước Kiến. Lúc nhỏ xuất gia và sau này thường hoằng pháp tại núi Hoàng Bá nên người sau kính trọng chỉ gọi là tổ Hoàng Bá.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant