Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6. Qua 24 nước Trung Á và vượt qua Tuyết Sơn

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4270)
6. Qua 24 nước Trung Á và vượt qua Tuyết Sơn

ÐƯỜNG TAM TẠNG THỈNH KINH

Võ Ðình Cường
(In lần thứ ba, năm 2000 TP. Hồ Chí Minh)

QUA HAI MƯƠI BỐN NƯỚC TRUNG Á 
VƯỢT QUA TUYẾT SƠN

Từ Cao Xương, Ngài Huyền Trang đi về phía Tây, sang nước A Kỳ Ni (huyện Yên Kỳ, xứ Tân Cương). Mặc dù Cao XươngA Kỳ Ni là hai nước láng giềng, nhưng đường đi rất nguy hiểm vì có nhiều bọn cướp hoành hành.

Giữa đường, Ngài nhận thấy có nhiều thi hài của bọn lái buôn giàu có, vì muốn vượt đi trước toán đồng hành của mình để bán cho được giá, nên đã bị bọn cướp giết. Chính Ngài cũng bị một toán cướp đón đường mãi lộ.

Khi đến kinh đô A Kỳ Ni, vua nước ấy, cũng là một tín đồ nhiệt thành, đem cả đình thần ra nghinh đón Ngài và mời vào cung. Vua truyền cung cấp cho Ngài những thứ cần thiết để đi đường và tiếp đãi rất chu đáo. Nhưng vua chỉ hậu đãi một mình Ngài mà thôi, còn những người nước Cao Xương đi hộ tống, đều không được tá túc và cũng không được cung cấp ngựa trạm, vì giữa hai nước này thường hay có những vụ xung đột về biên giới. Ngài Huyền Trang chỉ nghỉ lại đây một đêm, và sáng hôm sau lên đường tiếp tục cuộc hành trình.

Ngài vượt qua con sông lớn Giao Hà, vòng quanh chân núi Ngân Sơn, và vào nước Khuất Chi (hay Nhục Chi hoặc Quy Tư) nay là huyện Khố Xá, khu tự trị Duy Ngô Nhỉ.

Khuất Chi là một nước phồn thịnh, có một nền văn hóa tiến bộ. Dân nước này theo Tiểu thừa Phật giáo. Chính ở đây, hai thế kỷ trước đã xuất hiện một vị Tổ sư danh tiếngNgài Cưu Ma La Thập. Vị Tổ sư này, thân phụ là người Aán Ðộ, thân mẫu là bà công chúa của nước Khuất Chi. Khi còn nhỏ Ngài sang học đạo ở Ấn Ðộ, đến hai mươi tuổi Ngài trở về Khuất Chi. Một đạo quân viễn chinh của Trung Hoa sang xâm chiếm nước này và bắt Ngài về Trung Hoa. Ở đây Ngài truyền giáo Ðại thừa và phiên dịch kinh điển từ chữ Phạn ra chữ Hán. Trong số các kinh dịch này, có bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa.

Ngài Huyền Trang đến đây chắc không khỏi thành kính gợi lại kỷ niệm của vị Tổ sư đã cùng một chí nguyện như mình là du nhậpphiên dịch kinh điển từ Aán Ðộ sang Trung Hoa.

Vua nước này, cũng là một tín đồ Phật giáo theo phái Tiểu thừa. Nghe tin Ngài đến, vua cùng đình thần và tăng lữ trong xứ ra nghinh tiếp rất trọng thể. Khi đám rước vào thành, một vị tăng già dâng cho Ngài một liễn hoa tươi, để Ngài rải trước tượng Phật và làm lễ bái yết.

Ðến bữa yến tiệc, vua Khuất Chi vì theo phái Tiểu thừa, dọn các thức mặn, Ngài Huyền Trang đã nhã nhặn từ chối không thọ lãnh. Do đấy, đã xảy ra sự bất đồng ý kiến về giáo lý giữa Ngài và vị trưởng lão Hòa thượng rất có danh tiếng ở đây là Ngài Mộc Xoa Cúc Ða (Mokshagupta). Vị danh sư này theo phải Tiểu thừa, đã du học ở Ấn Ðộ 20 năm, hiện là quốc sư của vua Khuất Chi.

Vị trưởng lão Tiểu thừa này dựa vào bộ Câu Xá Luận (Abhidharmakoca castra) để dẫn chứng cho lý luận của mình. Nhưng Ngài Huyền Trang trả lời:

–Ở nước tôi cũng có bộ luận ấy, nhưng tôi nhận thấy cũng chẳng có gì sâu sắc, nên tôi mới bỏ nước lặn lội sang Ấn Ðộ để nghiên tầm những kinh luận Ðại thừa như bộ Du Dà (Yoga castra) chẳng hạn.

Vị trưởng lão trả lời:

– Ðại thừa là một phái mới, trái với phái nguyên thủy là phái theo đúng giáo lý của đức Bổn Sư Thích Ca. Ngài sang Ấn Ðộ để nghiên cứu những kinh điển Ðại thừa thì thật là vô ích. Những đệ tử chân chính của Phật không ai học những bộ kinh luận ấy.

Ngài Huyền Trang nói lớn:

"Bộ Du Dà (Yoga castra) do một đai đệ tử hiện thân của đức Di Lặc nói ra mà Ngài bảo là sai lầm, thì Ngài không sợ đọa xuống hỏa ngục sao?

Tuy thế, sự cãi vả về giáo lý ấy không làm cho hai vị cao tăng đại đức ấy mất lòng trọng nể nhau. Ngài Huyền Trang ở lại nước Khuất Chi 60 ngày, vì tuyết đang còn bao phủ núi Thống Lĩnh chưa thể đi được. Trong thời gian ấy, hai vị thường lui tới đàm đạo giáovới nhau. Ngài Huyền Trang mặc dù không đồng ý về giáo lý Tiểu thừa mà các vị sư ở Khuất Chi đang tu hành, cũng phải thành thật công nhận sự tinh thông các kinh điển Tiểu thừa và sự nghiêm trì giới luật của các vị này. Và vị trưởng lão Mộc Xoa Cúc Ða cũng thường nói với các đệ tử mình: "Vị Hòa thượng Trung Quốc này học thức cao rộng khó có người đối đáp nổi. Sợ rằng ở Ấn Ðộ, vị tất đã có vị học giả uyên bác nào sánh kịp".

Khi Ngài Huyền Trang từ giã Khuất Chi, vua nước này cấp cho Ngài những bộ hạ theo hầu, lạc đà, ngựa, cả một lữ đoàn, và cùng tăng lữtín đồ, tiễn Ngài ra xa ngoài kinh thành.

Ngài Huyền Trang từ Khuất Chi đi về phía Tây 60 dặm, qua một sa mạc nhỏ, đến nước Bạt Lộc Già (hay Cô Mặc, tức Bái Thành và A Khắc Tố thuộc Tân Cương). Ngài trọ ở đấy một đêm, rồi lại đi tiếp về phía Tây, đến núi Tăng Sơn thuộc Thông Lĩnh (Thiên Sơn). Ðường đi qua núi này rất là cheo leo, nguy hiểm, núi cao như chọc trời, quanh năm đều có tuyết phủ, băng tuyết trùng điệp chạy dài đến chân trời và lẫn với mây. Có nhiều phiến đá khổng lồ chặn cả lối đi, muốn vượt qua, thật là nguy hiểm. Suốt ngày, chỉ nghe tiếng gió reo, và tuyết theo gió, đổ xuống từng trận. Giá rét căm căm mặc bao nhiêu lớp áo cừu vẫn thấy lạnh buốt đến xương tủy. Lữ hành phải dò từng bước một, khi thì bám sát vào vách đá cheo leo, khi thì đu cả người từ mỏm đá này sang mỏm đá khác.

Không có một chỗ nào khô ráo, muốn nấu ăn thì phải treo nồi lủng lẳng giữa hư không, muốn nằm ngủ thì phải trải chiếu trên băng tuyết. Ðoàn lữ hành của Ngài phải đi trong bảy ngày bảy đêm mới ra khỏi dãy núi ấy. Ðoàn người đi hộ tống Ngài, có kẻ không chịu nổi khổ sở, nửa đường đã bỏ trốn về, có người chết rét ở giữa núi; lừa và ngựa lại càng chết nhiều hơn. Kiểm điểm lại, chỉ còn mấy người theo Ngài.

Ra khỏi Lăng Sơn, Ngài theo dòng sông Cáp Lạp Thập, vượt qua núi Khách Lạt Côn Luân, đến một cái hồ lớn gọi là Nhiệt Hải (tức là Issik-kol, thuộc Liên Xô cũ). Hồ này được gọi tên như thế, vì tương đối ít lạnh hơn các vùng lân cận và không bao giờ có băng giá. Hồ rộng, chu vi có trên ngàn dặm, xung quanh bao bọc toàn núi, có nhiều sông, suối, đổ vào. Nước mặn và màu xanh đen. Nước chảy xoáy và luôn luôn rạt rào sóng cả. Ngài Huyền Trang đi theo bờ hồ về phía Tây bắc độ 500 dặm, đến thành Tô Ðiệp (Tokmak, thuộc Liên Xô cũ). Ngài gặp Ðại vương nước Ðột Quyết là Diệp Hộ đang đi săn ở đấy. Diệp Hộ là một Ðại vương (Khan) có rất nhiều uy quyền và nhiều chư hầu trong vùng Trung Á này. Chính Khúc Văn Thái đã ân cần dâng thư giới thiệu Ngài Huyền Trang với Diệp Hộ.

Khi Ngài Huyền Trang đến thì gặp Diệp Hộ đang cùng triều thần cưỡi ngựa đi săn về. Vị vua này, đầu quấn khăn lụa, để thòng hai giải dài ra sau, mặc áo choàng bằng sa tanh xanh, oai phong lẫm liệt ngồi trên ngựa, quanh mình có trên 200 dũng tướng theo hầu. Những người này để tóc búi, mặc áo choàng bằng gấm. Theo sau là quân lính cưỡi ngựa, hoặc lạc đà, mặc áo bằng lông thú hay bằng nỉ, mang giáo mác, cung, tên, đi thành đoàn dài tưởng không bao giờ hết.

Diệp Hộ sau khi được giới thiệu của Khúc Văn Thái, mời Ngài Huyền Trang về doanh trại của mình ở Tô Ðiệp.Vua ở trong một cái lều bằng nỉ rất lớn, có kết hoa bằng vàng. Vua ngồi ở giữa và trong cùng, trước mặt là hai hàng dũng tướng, ngồi xếp bằng trên những chiếc chiếu; sau lưng các vị tướng này là hai hàng ngự lâm quân, khí giới sáng lòa, nghiêm chỉnh đứng hầu.

Vua thiết tiệc khoản đãi Ngài Huyền Trang và các sứ giả của vua Cao Xương. Chỉ riêng Ngài Huyền Trang được ngồi trên một chiếc ghế bành có tay dựa, còn những sứ giả khác thì ngồi chung với các tướng lĩnh. Rượu và những khúc thịt cừu và bê thui được đặt chồng chất trước mặt các tân khách. Riêng Ngài Huyền Trang thì vua truyền dọn những thức chay, như bánh bột gạo, sữa, đường, mật ong, nho. Trong lúc ăn, có ca nhạc.

Sau buổi tiệc, vua kính cẩn thỉnh Ngài Huyền Trang giảng cho một thời Phật pháp. Ngài giảng về thuyết Từ bi và những phương pháp tu hành để được giải thoátgiác ngộ.

Nghe xong, vua đứng dậy, đảnh lễ Ngài và với vẻ mặt hoan hỷ, cam kết xin thọ lãnh những lời Ngài dạy. Nhưng cũng như vua Khúc Văn Thái nước Cao Xương, vua Diệp Hộ cũng yêu cầu Ngài đừng tiếp tục cuộc hành trình sang Tây Trúc nữa. Ông nói:

–Bạch Pháp sư, đệ tử khuyên Ngài đừng sang Tây Trúc nữa, xứ ấy mùa đông cũng như mùa hạ khí hậu quá nóng bức. Ðệ tử sợ rằng Pháp sư sang đến đấy thì mặt mũi Ngài sẽ tan ra nước mất. Dân cư ở đấy đen đúa và phần nhiều trần truồng như nhộng, không biết lễ nghĩa là gì. Thật không đáng cho Ngài phải mệt sức đi đến xứ ấy.

Ngài Huyền Trang trả lời một cách nhẹ nhàng:

–Tâu Ðại vương, bần tăng chỉ muốn sang đấy để mưu tầm giáo lý và thỉnh kinh Phật, chứ không có mục đích gì khác. Bần tăng nóng lòng muốn đi tìm dấu vết của đức Bổn Sư, xin Ðại vương hãy cho bần tăng được như nguyện.

Vua Diệp Hộ không cản trở nữa, và sai quan biên thư gửi gắm Ngài với các nước chư hầu mà Ngài sắp đi qua, và cho người thông ngôn đi theo Ngài nữa.

Ngài Huyền Trang từ tạ vua Diệp Hộ ra đi không ngờ lần ấy cũng là lần vĩnh biệt, vì mấy tháng sau, vua Diệp Hộ bị mưu sát, và nước Ðột Quyết hùng mạnh bị chia phân thành nhiều mãnh.

Từ giã nước Ðột Quyết, Ngài đi tiếp sang phía Tây, đến Thiên Toàn (Binggol) là một xứ phì nhiêu, ba mặt đều là đồng bằng, chỉ phía nam là giáp giới với núi Tuyết. Ở đây có đến nghìn suối nước (nên mới gọi là Thiên Toàn), khí hậu điều hòa, đến mùa xuân, cây cỏ đơm hoa, toàn xứ trông như một bức gấm dệt đủ màu; vua chúa trong vùng này thường ngự đến đây nghỉ mát. Hươu nai ở đây rất nhiều và được thảnh thơi rong chơi, vì vua đã có sắc lệnh cấm dân chúng giết hại chúng, ai trái lệnh sẽ bị xử tử.

Ngài đi tiếp đến nước Chữ Thì (Tản Mã Nhĩ Hàn hay Samarcand thuộc Liên Xô cũ). Dân nước này khi theo đạo Phật, khi theo đạo thờ lửa. Lúc Ngài mới vào nước, một số dân chúng nắm những thanh củi đỏ đuổi theo Ngài. Vua cũng tiếp Ngài một cách lạnh nhạt. Nhưng ngày hôm sau, Ngài Huyền Trang xin phép giảng một thời kinh, và sau khi nghe, vua bỗng đổi thái độ, tỏ ra rất niềm nở đối với Ngài, và truyền bắt những kẻ đã nắm lửa đuổi theo Ngài hôm trước đem ra chặt tay chân. Nhưng Ngài Huyền Trang, động lòng từ bi, xin vua giảm tội, bằng cách đánh mỗi người mấy trượng thôi. Sau vụ trừng phạt ấy, dân chúng đủ các hạng, vừa sợ vừa cảm phục lòng đại độ của Ngài Huyền Trang, đến xin quy y với Ngài rất nhiều. Ngài liền triệu tập một hội nghị các tăng già, sắp đặt lại ngôi thứ trong Giáo hộichấn chỉnh lại những ngôi chùa đã bị ngoại đạo xâm chiếm.

Từ giã nước này, Ngài đi về phía Nam, trên 300 dặm đường núi non hiểm trở. Dọc đường không thấy có nước và cây cỏ. Từ đây con đường mỗi lúc một tăng thêm khó khăn, nguy hiểm, vì là sắp đến gần dãy núi đồ sộ và cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.

Trước tiên, Ngài phải vượt nốt cái đoạn đường khó khăn của dãy núi Ba Ðạt Khắc là đèo Thiết Môn. Hai bên là vách đá thẳng vút, cao đến nghìn trượng, giữa chỉ có một lối đi nhỏ hẹp quanh co, hiểm hóc. Nếu vô ý trật chân, là rơi xuống hố sâu và thân hình nát như cám. Sắc đá đen xanh như sắt; ở lối đi vào hang núi ấy có một cái cửa có hai cánh bằng sắt, ở phía trên cửa có treo nhiều chuông nhỏ. Ra khỏi núi này, là đến nước Thổ Hòa La (địa giới nước Apganixtan ngày nay). Ðáng lẽ đi thẳng về phía Nam để sang Ấn Ðộ, Ngài rẽ về phía nước Tát Già Thì (thuộc xứ Batriane, nước Apganixtan). Ngài muốn đến thăm vị vua nước này, là con ruột của vua Diệp Hộ nước Ðột Quyết và là con rể của vua Khúc Văn Thái, nước Cao Xương. Ngài đem tin tức và thư từ của hai vị vua này đến cho tiểu vương Tất Gìa Thì Nhưng, khi Ngài đến đây thì nội biến trong hoàng cung đang xảy ra. Nguyên là bà vợ của vị vua này tức là con gái của vua Cao Xương, vừa mất thì vị tiểu vương này liền lấy một người vợ kế. Bà sau này trước kia là tình nhân của vị hoàng tử con bà vợ trước, vì thế bà sau này đã âm mưu giết vua và đặt hoàng tử, tình nhân của mình lên ngôi. Vị tiểu vương mới này cũng rất hậu đãi Ngài Huyền Trang. Vua mời Ngài đi đến thành Tiểu Vương Xá là một nơi có rất nhiều di tích Phật giáo. Thành này bây giờ đã hoang phế điêu tàn. Nhưng trong thời gian Ngài Huyền Trang đi qua, thì đây là một thành phố phồn thịnh có trên một trăm tịnh xá, chứa gần ba ngàn tăng đồ thuộc phái Tiểu thừa. Trong các chùa có rất nhiều di tích của đức Phật Thích Ca. Trong số các vị sư ở đây có nhiều người rất tinh thông giáo lý Tiểu thừa. Chính ở tại đây, Ngài Huyền Trang đã học hỏi được rất nhiều về những bộ kinh chính yếu của giáo phái này.

Ở đây, Ngài gặp được một vị sư trẻ tuổi và thông tháiTuệ Tịnh người nước Thổ Hòa La. Vị này tôn Ngài làm sư phụtình nguyện cùng đi theo Ngài sang Aán Ðộ. Ðây cũng là mọt điều may mắn cho Ngài, vì Ngài sắp vượt qua Hy Mã Lạp Sơn mà những người theo hộ tống Ngài từ nước Ðột Quyết thì đã quay về hết cả rồi.

Hai thầy trò đi về phía đông nam, trèo lên dãy Tuyết Sơn. Con đường núi này thật muôn ngàn hiểm trở hơn tất cả những đoạn đã đi qua. Núi luôn luôn có tuyết phủ, vì thế nên người Trung Hoa gọi là Tuyết Sơn. Sương tuyết phủ mờ tất cả, người ta có cảm tưởng đi trong trăng mờ; thỉnh thoảng may ra mới có được một khoảng bằng phẳng độ 4, 5 thước vuông. Núi lởm chởm nằm ngang lưng trời, mất hút trong mây. Lạnh thấm đến cốt tủy. Hai người đi như thế trên 2.000 dặm, chịu đựng biết bao gian khổ mới đến được Ba-mi-dăng (Bamiyan) là một xứ nằm cheo leo trên đỉnh núi, giữa con đường đi qua Hy Mã Lạp Sơn. Xứ này cũng theo Phật giáo Tiểu thừa, có độ mười ngôi chùa và mấy ngàn tăng đồ.

Ðến đây, Tuệ Tịnh người đệ tử mới của Ngài bị vua nước Thổ Hòa La cho người đến thỉnh về. Tuệ Tịnh đành phải luyến tiếc từ giã Ngài trở lui.

Từ đây, Ngài chỉ một mình tiếp tục cuộc hành trình qua núi Tuyết, đi 600 dặm về phía đông nam, có một lần Ngài bị lạc trong núi, may nhờ có những người đi săn đưa Ngài ra đường chính. Sau khi vượt qua Tuyết Sơn, Ngài bắt đầu đặt chân lên Hắc Lĩnh, tức là những ngọn núi về phía nam Hy Mã Lạp Sơn, sát biên giới Bắc Ấn Ðộ. Người ta gọi là Hắc Lĩnh vì đến mùa hạ, tuyết ở trên các ngọn núi này tan ra, để lộ màu đen của đá, trái với Tuyết Sơn là những ngọn núi cao luôn có tuyết đóng ở phía Bắc dãy Hy Mã Lạp Sơn sau khi vượt qua. Hắc Lĩnh, Ngài đặt chân vào địa đầu biên giới Bắc Ấn Ðộ.

Kể ra từ Cao Xương đến đây, Ngài Huyền Trang đã đi qua 24 nước lớn nhỏ ở Trung Á, giữa hai biên giới Trung Hoa và Ấn Ðộ; và đã vượt qua dãy núi cao nhất thế giới là Hy Mã Lạp Sơn.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8028)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35567)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19703)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11714)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23200)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5851)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10627)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10364)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10066)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20873)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6209)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6860)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8901)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18164)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6738)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6558)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13025)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5879)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7896)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10211)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7879)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9879)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24560)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36417)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11556)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10050)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10012)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7890)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9377)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8669)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6910)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12327)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5803)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14580)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12447)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10961)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16718)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8487)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11359)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7050)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46724)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13514)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8401)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17863)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18187)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15811)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6965)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31261)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9586)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21635)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33331)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33057)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41426)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40365)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20063)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29687)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18886)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22729)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22454)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49018)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11975)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11169)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18011)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15121)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19727)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant