Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phụ lục: Những Thánh tích của hai Ðại đức Sàrìputta và Maha Moggallana

10 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 5699)
Phụ lục: Những Thánh tích của hai Ðại đức Sàrìputta và Maha Moggallana

Cuộc đời tôn giả Xá Lợi Phất

Tác giả: Nyanaponika Thera - Dịch giả: Nguyễn Điều

PHỤ LỤC

NHỮNG THÁNH TÍCH CỦA HAI ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA VÀ MAH€ MOGGALL€NA

Trên ngọn đồi ÀSanõchi ở Bhopal. Sanõchi có tên cũ là Kakanara và trong bộ Mahàvansa gọi là Chetigiri. Có những di tích của mười ngôi Bảo tháp. Những di tích ấy nằm trong số các công trình kiến trúc xưa nhất còn tồn tại trên xứ Ấn Ðộ.

Với những nét kiến trúc cổ kính và nghệ thuật điêu khắc thần kỳ, người ta phải công nhận rằng nó được kiến tạo trong một thời kỳ Phật giáo cực thịnh và đã biểu lộ nền văn minh cao ngất của Phật giáo. Những đặc điểm, chẳng hạn như vô số nét chữ khắc trên đó đã được người ta chép lại và các nhà khảo cổ đã xác nhận rằng chúng được tạo lập vào khoảng thời đức vua A Dục (Asoka Ràjà), nghĩa là vào khoảng thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Một số các di tích ấy được bảo tồn nguyên vẹn, trong khi những cái kia bị phôi pha bởi thời gian trôi qua hằng bao nhiêu thế kỷ nên chỉ còn lại bằng những mô đất và đá.

Một trong những Thánh tích ấy là ngôi Bảo tháp thứ ba bây giờ vẫn tồn tại và rất nổi tiếng. Chính ông Alexander Cunningham và Ðại úy F. C. Meisey đã khám phá ra các di Thánh thể của hai vị Ðại đệ tử Phật là các đức A-la-hán Sàrìputta và Mahà Moggallàna vào năm 1851.

Cũng trong thời gian đó, người ta còn tìm ra nhiều Thánh thể lưu lại của nhị vị A-la-hán nói trên trong một Bảo tháp tại vùng Satadhàra cách Sanõchi chừng sáu dặm.

Khi chân trục ở trung tâm Bảo tháp tại Sanõchi bị sụp sâu vào lòng đất rồi, ngọn đồi Bhopal chỉ còn ló lên như một phiến đá cao khoảng năm thước Anh và nằm theo hướng Nam Bắc.

Bên dưới tảng đá tưởng nhớ ấy, người ta tìm thấy hai chiếc hộp làm bằng sa thạch màu xám. Mỗi cái có những dòng điêu khắc đơn giản bằng nét chữ Brahmin trên nắp hộp.

Chiếc hộp nằm ở phía Nam có khắc chữ “S” nghĩa là di tích của ngài A-la-hán Sàrìputta, trong khi chiếc hộp nằm ở phía Bắc mang câu chuyện truyền kỳ của Ðại đức Mahà Moggallàna, hay nói cách khác đó là di tích của một đại A-la-hán có nhiều thần thông nhất trong các môn đệ của Ðức Phật.

Chiếc hộp nằm cực Nam lại chứa một hộp con khác, phẳng và rộng làm bằng chất bạch nu. Hộp ấy rộng khoảng hơn sáu tấc và cao chừng ba tấc Anh. Bề mặt của nó thật cứng và bóng nhẵn. Ngay cả chiếc hộp lớn đựng nó, nếu cho một người thợ chạm hay tiện trông thấy họ sẽ tấm tắc khen rằng “Nó đã được tạo ra do một bàn tay tinh xảo nhất”.

Xung quanh cái hộp con là những mảnh gỗ đàn hương mà người ta tin rằng đó chính là các vật còn lại của những chiếc hòm đựng để thiêu Thánh thể của hai vị A-la-hán kia. Bên trong ngoài các di Thánh thể ra, người ta còn tìm thấy nhiều loại ngọc thạch quý giá. Chiếc hộp con này còn chứa một mảnh xương (Xá lợi) của Ðại đức Sàrìputta. Ðó là Xá lợi duy nhất dài đến một tấc Anh.

Còn chiếc hộp nằm phía Bắc cũng chứa một hộp vuông nhỏ làm bằng bạch nu khác. Tương tự như chiếc hộp bên này, nhưng nó nhỏ, nhẹ hơn và bề mặt mềm hơn. Bên trong có chứa hai viên ngọc Xá lợi của Ðại đức Mahà Moggallàna. Trong hai viên ấy, viên lớn nhất dài khoảng non nửa tấc Anh.

Mặt trong mỗi chiếc nắp của hai chiếc hộp nhỏ đựng Xá lợi ấy có khắc sâu bằng một thứ mực đặc biệt hai chữ “SA” (có nghĩa là chiếc hộp này đựng Xá lợi của ngài Sàrìputta) và chữ “MA” (có nghĩa là Xá lợi của Ðại đức Mahà Moggallàna).

Theo những chữ khắc ở Bảo tháp mà ông Cunningham ghi lại thì hai Ðại đức Sàrìputta và Mahà Moggallàna là những môn đệ dẫn đầu của Ðức Phật. Do đó các ngài thường được Kinh sách nói đến như những đệ tử tay mặt và tai trái của Ðức Bổn Sư.

Ngoài ra, những tro cốt của các ngài cũng được bảo tồn kỹ lưỡng sau lễ Thánh hỏa và được lưu thờ cùng hai vị trí là bên mặt và bên trái của đấng Toàn giác như lúc Ngài còn tại thế (Theo cuốn Bhilsa Topes - 300).

Diễn tả như vậy là căn cứ vào một sự thật mà Ðức Phật thường làm khi còn sanh tiền là Ngài hay ngồi quay mặt về hướng Ðông, Ðại đức Sàrìputta hầu bên phải, còn Ðại đức Mahà Moggallàna hầu bên trái của Ngài, tức là phía Nam và phía Bắc theo phương hướng vậy.

Một trong những cuốn sách mà ông Cun-ningham viết để lại, có lưu chú gọi đó là đoạn nói về những đài kỷ niệm Ðức Phật tại địa phương (Buddha Bhita). Ông ta đã tìm ra hai vuông hộp làm bằng chất bạch nu có vân nhạt cũng đựng Thánh vật trong một Bảo tháp tại Satadhàra. Những vuông hộp này cũng có chạm khắc giống như hai cái ở Sanõchi: Ý nói đó là Tôn hài của hai Ðại đức Sàrìputta và Mahà Moggallàna. Ngôi Bảo tháp này có nhiều dấu hiệu cho ta biết là đã bị nhiều lần cướp đoạt. Tuy nhiên, ngọc Xá lợi trong đó vẫn còn lưu lại an toàn.

Ông Cunningham, người tỏ ra rất giỏi về môn khảo cổ đã lưu lại một phóng sự tường trình, nhiều chi tiết nhất về mọi vấn đề trong việc đào xới những bí vật.

Những bí vật ấy được đem ra ánh sáng một cách rõ ràng giá trị, đầy tôn kính. Và giờ đây nằm trọn trong các Bảo thápchúng ta vừa bàn đến. Cũng chính nhờ ông mà sự tin tưởng đối với những Thánh vật này được trở nên chắc chắnlâu dài.

Theo Ấn Sử, các Thánh vật trong cả hai Bảo tháp trước đây đã bị người Anh dời về nước và đặt tại Viện Bảo Tàng Victoria và Albert nhưng có vài sự trái ngược do lời mô tả của ông Cunningham về những vuông hộp đựng ngọc Xá lợi và những chiếc hộp vừa kể, trong đó Xá lợi được tàng trữ, đã cho ta có lý do mà tin rằng chính ông hoặc một nhân vật khảo cổ nào khác đã di chuyển các viên ngọc Xá lợi từ Sanõchi đến đựng trong hộp vuông nhỏ mà sau này người ta tìm ra tại Satadhàra. Do đó, những chiếc hộp nhỏ trong các hộp lớn mà người sau này không biết rõ gốc tích một cách quả quyết là những chiếc hộp ở Sanõchi.

Riêng những Thánh vật Xá lợi đã được bảo tồnBảo Tàng Viện Victoria và Albert cho tới năm 1939 thì hội Ðại Bồ Ðề Tràng Ấn Ðộ (Mahà Bodhi Society) đã gởi đến chính phủ Anh một văn thư yêu cầu hoàn trả những báu vật ấy lại cho Ấn Ðộ. Lời yêu cầu đó đã một lần được chấp nhận nhưng vào năm ấy đệ nhị thế chiến lại bùng nổ. Sự hoàn chuyển Thánh tích đã bị hoãn lạilý do an ninh. Ðến ngày 24 tháng 12 năm 1946, công việc ấy mới được thực hiện.

Vào ngày đó, mọi Xá lợi Thánh vật đã được chánh phủ Anh trao lại cho các đại diện hội Ðại Bồ Ðề Tràng tại hai Viện Bảo Tàng Victoria và Albert. Sau đó, cuộc lễ chuyển hoàn về cựu thổ đã xảy ra một cách trọng thể.

Tuy nhiên, trước khi đem về tàng trữ tại Ấn Ðộ, các ngọc Xá lợi được chuyển sang xứ Tích Lan và được dân chúng Tích Lan cung nghinh một cách hân hoansùng kính.

Vào năm 1947, các ngọc Xá lợi đã được trình bày cho dân chúng lễ bái trong thời gian hai tháng rưỡi tại Viện Bảo Tàng Colombo. Theo sự phỏng đoán, trung bình cũng có hai triệu người đến lễ bái. Người ta còn thuật lại rằng không chỉ những người theo Ðạo Phật, mà có cả đến rất đông tín đồ Ấn Ðộ giáo và Thiên Chúa giáo cũng đến chiêm bái ngọc Xá lợi.

Ðoạn đường kế tiếp để cung thỉnh Xá lợi là từ Tích Lan đến một ngôi chùa mới đang được xây dựng để tái phụng thờ tại Sanõchi, gần thủ phủ Calcutta. Ở đó, người ta lại một lần nữa, đem ngọc Xá lợi trưng bày cho dân chúng lễ bái tại chùa Derama Ràjika, vì đó là trụ sở trung ương của hội Ðại Bồ Ðề Ấn Ðộ. Những cảnh tượng ngưỡng vọng và sùng bái Thánh tích một cách tấp nập như ở Tích Lan lại cũng xảy ra ở đây.

Hằng hai ba tuần lễ liên tiếp, những đoàn người chen chúc nhau không dứt đã đến ngôi Quốc Tự Ấn Ðộ để chiêm bái từ sáng đến chiều tối. Hầu hết những người đến lễ bái là theo Ấn Ðộ giáo, nhưng cũng có một số lớn những người theo các đạo khác. Nhưng tất cả đến đó đều lễ bái một cách vô cùng kính cẩn.

Cũng có nhiều đoàn chiêm bái từ các nơi xa xôi trong và ngoài nước Ấn Ðộ tấp nập về chiêm ngưỡng di tích của hai bậc tối thượng xứ Phật này.

Kế đó là lời thỉnh cầu của chính phủ Miến Ðiện. Họ cũng ao ước Xá lợi được đem đến trưng bày ở nước họ cho dân chúng lễ bái. Sự thỉnh cầu này đã được hoan hỷ chấp thuận. Vì vậy, một cuộc lễ tiếp rước long trọng được cử hành tại Miến Ðiện đã làm sống lại một thời gian vàng son an lạc nhất trước đây khi Phật giáo còn cực thịnh. Ðể cho mọi người đều có một dịp chiêm bái, các viên ngọc Xá lợi đã được cung nghinh vòng quanh trong xứ, dọc theo nhiều con sông trên một thuyền rồng (Irrawaddy) từ Mandalay đến Rangoon. Chiếc thuyền rồng cho Xá lợi chạy bằng hơi nước này được những chiếc thuyền khác trang trí một cách lộng lẫy theo phong tục Miến Ðiện hộ tống. Và tại mỗi thành phố dọc theo hai bên bờ sông những Thánh tích Xá lợi lại được dân chúng rước lên bờ, đem an vị trong một ngôi chùa chính tại nơi ấy cho dân chúng lễ bái. Ðồng thời các cuộc lễ khác cũng được tổ chức.

Ðã có không biết bao nhiêu ngàn người từ những làng mạc kế cận đến nghe phápcầu kinh. Ðiều đáng chú ý là trong thời gian Xá lợi được rước lên an vị như thế những buổi thuyết pháp và những thời cầu kinh đã được tổ chức liên tục suốt ngày lẫn đêm.

Ðoạn để đáp ứng lời thỉnh cầu của chính phủ Népal, ngọc Xá lợi lại được đưa sang Népal và Ladakh.

Sau một thời gian cung nghinh khắp nơi cho người đời chiêm bái, Xá lợi được rước về Ấn Ðộ, và chính phủ Miến Ðiện đã thỉnh cầu để được chia một phần Xá lợi đem về Miến Ðiện tạo Bảo tháp phụng thờ.

Giáo Hội Ðại Bồ Ðề Tràng của Ấn Ðộ đã chấp thuận lời yêu cầu đó, và chính vị Thủ Tướng nước Miến Ðiện đã đích thân bay sang Calcutta tiếp nhận. Hai nước này cũng tổ chức một cuộc lễ trao Xá lợi trọng thể vào ngày 20 tháng 10 năm 1950.

Phần Xá lợi phân phối cho Miến Ðiện sau này đã đem phụng thờ tại ngôi Lạc Thế Tự mà người Miến Ðiện gọi là KABA AYE JEDI dịch sang tiếng Anh là World Peace Pagoda.

Ngôi chùa này được xây bên cạnh tòa Ðệ Lục Ðại Hội Kết Tập Phật giáo, một cơ quan cao cấp Phật giáo gần Rangoon. Nhiều cuộc lễ thật trang nghiêm cho việc đăng quangan vị Xá lợi đã được tổ chức kéo dài từ ngày 5 đến ngày 11 tháng 3 năm 1952.

Một phần Xá lợi khác cũng được cống hiến cho dân tộc Tích Lan để phụng thờ trong một ngôi Bảo tháp mới do hội Ðại Bồ Ðề Tràng (Mahà Bodhi) Tích Lan xây cất.

Trong khi soạn giả đang ghi chép lại các diễn tiến lịch sử này, những viên ngọc Xá lợi ấy được tạm thời an vị trong một ngôi chùa của Giáo Hội Ðại Bồ Ðề Tràng Tích Lan tại thủ đô Colombo để cho công cuộc kiến trúc hoàn tất.

Riêng phần nước Ấn Ðộ, ngày 30 tháng 11 năm 1958 những Thánh thể vật lưu thế như chúng ta vừa nói, lại được tái an vị ở Sanõchi, trong Bảo tháp, tại một ngôi chùa nguy nga tráng lệ. Ngôi chùa và Bảo tháp này đã được xây cất với một công trình vĩ đại là cốt để tái phụng trì Xá lợi vậy.

Giờ đây Xá lợi đã trở về cố thổ và gieo vào lòng Phật tử đến hành hương từ khắp các nước bốn phương trên thế giới một sự sùng kính sâu xa và khiến họ chẳng bao giờ quên được đời sống của những Thánh nhơn đệ tử ưu tú nhất của một đấng Toàn giác.

Những vị đã gặt hái được các Thánh quả cao thượng nhất, đầy đủ nhất trong giáo lý của chư Phật.

Hai cái tên Sàrìputta và Mahà Moggallàna (Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên) ấy từ nay cho đến hết năm ngàn năm sẽ sống song song với tám muôn bốn ngàn pháp môn của Ðức Phật như một sức mạnh hộ pháp, hay một gương sáng lưu truyền.

Dịch xong tại Sài Gòn tháng 12 năm 1966

Dịch giả NGUYỄN ÐIỀU

 

(1) Trong Kinh Cunda, Satipatthàna Samßyutta và Chú Giải thì nơi sanh của Ngài là Nàlàkà - hay Nàlàgàma. Không chừng đó là tên phụ. Có điều chắc chắn là nơi ấy gần vùng Nalanda... Ở Nalanda có một Ðại Học Ðường đầu tiên trên thế giới. Chính Ðường Huyền Trang đã tòng học tại đây. Còn ông Bà-la-môn, tức thân sinh của Ðại đức Sàrìputta tên là Vaganta.

(2) Ðó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thiện nam, Tín nữ

(3) Kinh Dighanakha Sutta, Majjhima Nikàya N.74.

(4) Theo chú giải trong Anguttara Nikàya phần thứ 4, số 172.

(5) Căn cứ theo Thera Gàthà do Ðại đức Sàrìputta thuyết, các kệ ngôn số 995-996.

(6) Ðây là theo căn duyên của những ai có trí tuệ phi thường như Ðại đức Sàrìputta. Theo Kinh điển Phật giáo thì Ðại đức Sàrìputta có trí tuệ bậc nhất trong các đệ tử Phật.

(7) Theo Thera Gathà

(8) Trong Majjhi, số 143

(9) Theo Trung A Hàm ( Majjhima Nikàya) số 24.

(10) Năm bộ A Hàm ấy là : 1- Trường A Hàm (Dìgha Nikàya). 2- Trung A Hàm (Majjhima Nikàya). 3- Tạp A Hàm (Samßyutta Nikàya). 4- Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya). 5- Tiểu A Hàm (Khuddaka Nikàya)

(11) Bảy anh chị em của Ðại đức Sàrìputta sau khi xuất gia đều đắc quả A-la-hán

(12) Viết dựa theo Kinh Vangisa Samßyutta No. 7

----o0o---

Xem tập sách (bản PDF)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8028)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35566)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19703)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11713)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23200)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5850)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10627)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10364)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10066)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20873)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6209)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6860)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8901)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18163)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6737)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6558)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13024)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5877)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7896)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10210)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7879)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9878)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24559)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36417)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11555)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10050)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10011)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7890)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9376)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8668)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6910)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12326)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5802)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14578)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12447)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10959)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16717)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8487)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11358)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7050)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46724)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13514)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8401)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17862)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18185)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15809)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6964)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31260)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9586)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21634)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33331)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33057)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41425)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40365)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20062)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29686)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18884)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22728)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22454)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49017)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11975)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11169)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18010)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15121)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19727)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant