Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

09. Những ngày cuối cùng của Mahà Moggallàna

12 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 6544)
09. Những ngày cuối cùng của Mahà Moggallàna


Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên

Tác giả: Hellmuth Hecker - Dịch giả: Nguyễn Điều

9. NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA MAHA MOGGALLANA

Sáu tháng trước khi Phật nhập Niết-bàn, sự tịch diệt đã tách rời lần cuối cùng đôi bạn Thánh nhơn Sàriputta và Mahà Moggallàna. Sàri-putta nhắm mắt vào ngày trăng tròn tháng Kattika (vào khoảng giữa hai tháng 10 và tháng 11 Dương lịch).

Sàriputta viên tịch ngay nơi quê hương ngài đã chào đời, và trong nhà của cha mẹ, rất xa người bạn cao thượng Mahà Moggallàna. Phải chăng hai vị Thánh Tăng ấy đã đắc quả A-la-hán tại hai nơi khác nhau, nên họ cũng viên tịch ở hai địa điểm khác nhau, mặc dù họ đã từng trải qua bao nhiêu kiếp không thể tách rời nhau được?

Và chẳng bao lâu, sau khi Sàriputta viên tịch, Ma vương (Mara), hiện thân của tội lỗi và thần chết, đã tìm cách hãm hại Mahà Moggallàna bằng cách xâm nhập vào bên trong thân thể của vị Thánh Tăng này. Ma vương phá phách khắp ngũ tạng lục phủ nhưng không thể nào gia hại nổi Đại đức Mahà Moggallàna, vì thiền lực của ngài vẫn an trụ trên đỉnh đầu, còn Ma vương thì không dám lên gần trên đó.

Tuy nhiên, Mahà Moggallàna vẫn hiền từ bảo Ma vương rằng: “Này Mara! Ngươi mau ra khỏi thân ta. Tuy tâm hồn ta hoàn toàn thanh tịnh không bao giờ có tà niệm gia hại chúng sanh nhưng ác nghiệp mà ngươi đang làm sẽ khiến cho thần thông ta tự động phát tác thì hậu quả tất đưa ngươi vào địa ngục!”.

Ma vương nghe thế sợ hãi vô cùng, liền biến thành một vật rất nhỏ, ẩn núp trong ruột già của Đại đức Mahà Moggallàna. Y nghĩ rằng: “Ngay cả Đức Phật cũng chưa chắc chắn tìm ra ta!”.

Chợt Ma vương nghe Mahà Moggallàna nói: “Này Mara! Luân xa thần (Chakra) trong thân ta không có chỗ nào là không thể chiếu tới, vậy ngươi mau ăn năn kẻo ác nghiệp thêm dày!”.

Ma vương bây giờ rất đỗi kinh ngạc, nhưng còn hy vọng là Mahà Moggallàna nói mò, chứ không biết xác thực hiện y ẩn núp chỗ nào. Nhất thời Ma vương yên lặng.

Đoạn Ma vương nghe Thánh Tăng nói tiếp: “Này Mara, ngươi đang khoảng giữa ruột già của ta. Chớ lầm lẫn cho là ta không biết!”.

Bấy giờ, Ma vương không còn cách nào làm khác được. Y liền nương theo ngõ miệng của Mahà Moggallàna thoát ra ngoài, và hiện nguyên hình đứng đối diện với Thánh Tăng này.

Mahà Moggallàna liền báo cho Ma vương lần đầu trong ngày hôm nay, mà ngài đã biết rõ gốc tích bao nhiêu ngàn đời nghiệp quả trước của hắn. Ngay cả con cháu, ma binh, dòng dõi hắn còn bao nhiêu ngài cũng biết nốt.

Rồi Mahà Moggallàna dùng ba pháp Thần trụ là Thiên nhãn thông, Tha tâm thôngTúc mạng thông để khuất phục Ma vương bằng một cách hòa nhã! Sự sử dụng thần thông này về sau được ghi trong Kinh Majjhima Nikaya số 50 với tựa đề là: “Mahà Moggallàna đã tự thuật về tiền kiếp”.

Sau đây là những điểm chính những gì vị Thánh Tăng này nói:

“Thuở Phật quá khứ tên là Kakusandha xuất hiện vào Đại kiếp trái đất (Bhaddakappa), đem diễm phúc đến cho tam giới chúng sanh, với năm vị Phật khác. Ngài đã sống bằng tuổi thọ trung bình của con người là bốn trăm ngàn năm. Và khi sự tăm tối đầu tiên trong cái tuổi thọ vàng son ấy bắt đầu che áng bởi vua chúa thiếu đức tánh tu thân, nên bỏ mất thiện tâm. Rồi lòng tranh giành ích kỷ bắt đầu xuất hiện. Do sự suy đồi đó, sức sống và tuổi thọ của loài người bị giảm xuống còn một nửa”.

Thuở ấy, Mahà Moggallàna chính là Mara (Ma vương) hoành hành các cõi trời Dục giớithế gian với cái tên là Dusimàra. Ma vương ấy có một “Ma chị” tên là Kali sanh được một đứa con trai, sau này trở thành Ma vương, đóng vai thần chết vào thời kỳ Đức Phật Thích Ca.

Như vậy, Ma vương đang đứng trước mặt kia không ai khác hơn là hàng con cháu của tiền thân Mahà Moggallàna từ một đại kiếp quá khứ.

Vì khi làm Ma vương trong thuở xa xôi ấy tiền thân Mahà Moggallàna đã si mê tấn công một vị đại đệ tử Phật quá khứ bằng cách hiện thành một đứa bé, lấy những mảnh chén bể, liệng vào đầu của vị đại đệ tử Phật kia cho đến khi đổ máu.

Khi Đức Phật Kakusandha thấy vậy bèn khuyên rằng: “Ma vương! Sao ngươi ác độc thế, nên biết hồi tâm! Ngay cả quỷ Sa-tăng cũng có lúc hối lỗi”.

Phật nói dứt, và chỉ trong nháy mắt, toàn thân Dusimàra liền tiêu tan ra khói và Mara bị đọa vào trong địa ngục sâu nhất.

Trước đó chẳng bao lâu, Ma vương là “Vua” của các cảnh địa ngục thì bây giờ chính Ma vương là “nạn nhân” của địa ngục. Lúc trước Ma vương là tay hành hạ tội phạm, bây giờ Ma vương phải chịu tất cả những gia hình tương tự. Đó là pháp thay đổi nhanh chóng trong cái Samsara (Càn khôn sinh tử đồ).

Trải qua không biết bao nhiêu ngàn năm, tiền thân Mahà Moggallàna phải chịu nhiều đau khổ trong cảnh địa ngục để trả quả ngu muội, nông nổi, xúc phạm đến một vị Thánh Tăng. Mười ngàn năm khác, tiền thân của Mahà Moggallàna còn chịu cầm cố trong một địa ngục mang mình người đầu cá, giống như họa sĩ Pieter Breughel đã vẽ những sinh vật trên một bức tường nói về địa ngục vậy.

Ở đó, cứ mỗi khi “Phạm Ma” bị hai ngọn giáo trừng phạt đâm xuyên qua trái tim thì sẽ biết rằng thời gian trên dương thế đã trải qua hai ngàn năm rồi. (Theo Majjhima Nikàya số 50)

Bây giờ thấy lại Ma vương (Mara), Mahà Moggallàna chợt nhớ đến những hãi hùng trong vòng luân hồi quá khứ (Samsara) mà hiện tại ngài được hoàn toàn giải thoát, nên tâm hồn ngài trở nên thanh tịnh, Phổ lực công tự động phát tác làm rung chuyển mặt đất, khiến Ma vương hoảng sợ chạy mất.

Sau khi Ma vương đi rồi, Mahà Moggallàna tự nhủ: “Đây là kiếp chót của ta! Sự sanh tử chắc chắn sẽ chấm dứt! Là một Thánh nhơn ta không thấy có lý do nào để ham mê một kiếp sống giả tạo. Ta còn sống là bởi vì thân thể ta chưa đến lúc tiêu hoại. Tuy trong mình ta có thần thông, ta thừa sức sử dụng phép lạ để sống lâu bằng một kiếp trái đất, nhưng ta làm vậy ích lợi gì? Ta nên để cho “Quỷ vô thường” biểu dương bản chất tự nhiên của nó!”.

Như nhiều nhà Hiền triết vĩ đại khác ở Đông phương (Á châu) và cũng như chư Thánh Tăng thời Đức Phật, Mahà Moggallàna đã lưu lại hậu thế một loại tự thuật dưới hình thức kệ ngôn gọi là Theragatha (Tôn Túc Kệ Ngôn) trong đó ngài đã tóm lược những pháp chính ngài tu tập để được giải thoát, và xuyên qua bao nhiêu tiền kiếp cho chí đời sống sau cùng, ngài vẫn giữ đúng hạnh nguyện không lo âu, không thối chuyển! Biết bao hạnh phúc kỳ diệu trong quả vị giải thoát và các thần thông thượng thừa đã làm cho những “kẻ khác” tràn ngập phỉ lạc, mắc dính trong những “hạnh phúc thần tiên” nhưng đối với Mahà Moggallàna, ngài vẫn thản nhiên như một ngọn núi phủ đầy hoa! (Ý nói ngọn núi không bao giờ biết hãnh diện trước sự vững chắc và vẻ đẹp của mình).

Những kệ ngôn của ngài trong Theragatha có thể tóm tắt bằng một câu đại ý như sau:

“Không còn cái vòng sanh tử luân hồi nào (Samara) trong tam giớibần Tăng chưa khám phá. Cũng không còn một quyền lực vô minh nào có thể che áng được Thánh tuệ của bần Tăng. Khổ não từ nay sẽ không còn gia hại bần Tăng nữa, vì bần Tăng đang sống trong một phẩm cách thanh tịnh vượt khỏi tất cả sự đau đớnbất an của kiếp luân hồi!”.

Khởi đầu Theragatha, kệ ngôn nói: “Ở đâu và khi nào những kẻ khác tham lam, ích kỷ, thì Mahà Moggallàna giữ cuộc đời ẩn dật, hài lòng với lối sống thanh đạmgiảm thiểu thèm muốn”. (Theragàthà, các câu từ 1446 đến 1449)

Thuở nọ có một cô gái làng chơi xinh đẹp tìm cách dụ dỗ, Mahà Moggallàna liền dứt khoát từ chối. Ngài từ chối như Đức Phật đã từ chối sự quyến rũ của những nàng con gái Ma vương. (Theragàthà, các câu từ 1150 đến 1157)

Khi Sàriputta, người bạn cao thượng nhất của ngài viên tịch, ngài không bị khích động hay bị đau buồn một cách thống thiết như Ananda (lúc ấy chưa đắc quả A-la-hán). Ngược lại, Mahà Moggallàna đã nhận tin bạn mình qua đời một cách nghiêm trangthanh tịnh. (Theragàthà, các câu từ 1158 đến 1163)

Tiếp theo, Theragatha (kệ ngôn) chuyển sang những câu nói về bản lãnh siêu phàm của Mahà Moggallàna. Chẳng hạn như chuyện ngài đã làm lung lay nhiều tòa nhà của một tu viện bằng ngón chân (câu 1164), chuyện ngài nhập định một cách vô ngại trong khe núi giữa cơn mưa gió sấm sét (câu 1167). Rồi tư cách ẩn tu một cách bình thản ở những nơi xa xôi hẻo lánh, ngài quả thật xứng đáng làm người thừa tự Đức Phật và đáng cho các hàng Phạm Thiên lễ bái (câu 1169).

Riêng những câu Theragatha từ 1169 đến 1173 là những câu Mahà Moggallàna khuyên nhủ một người Bà-la-môn dị đoantà kiến khi người ấy thấy Đại đức Mahà Moggallàna đi khất thựcphỉ báng. Mahà Moggallàna ôn hòa cảnh cáo lão Bà-la-môn về những ác ý và các hành động xấu xa như thế, khuyên vị này nên kính trọng các bậc Thánh nhơn! Những câu kệ ngôn số 1176 cũng là kệ ngôn Mahà Moggallàna tán dương Sàriputta.

Còn các kệ ngôn số 1177 đến 1181 dường như là những lời của chính Đại đức Sàriputta ca ngợi Đại đức Mahà Moggallàna.

Tiếp theo là những câu từ 1182 đến 1186, Mahà Moggallàna dùng để tự kiểm soát lại phép tu chứngđạt được quả vị giải thoát của mình như bổn phận trên hết mà ngài đã hoàn tất.

Cuối cùng, các kệ ngôn từ 1187 đến 1208 là những kệ ngôn thuật lại Mahà Moggallàna cảm thắng Ma vương như thế nào, tương tự như bản Kinh có tựa “Đối Diện Thần Chết” tìm thấy trong bộ Majjhima Nikaya (Trung A Hàm) số 50 đã nói trên đây vậy.

(Lời phụ giải của Dịch giả: “Ma vương” trong ngôn ngữ Phật giáo thường được dùng với hai hàm ý: Hàm ý thứ nhứt ám chỉ tử tính trong nhục thân con người, nghĩa là khi nào có một thân thể sinh hoạt là khi ấy có sự có mặt của “tử tính”. Hành động dù bằng thân hay bằng ý không gì khác hơn là tạo một chu kỳ năng lực, trong đó sự “tiêu thụ” các tế bào phải diễn ra và Tử tính (tức các tế bào cũ phải diệt) đương nhiên phát hiện. Hàm ý thứ hai: Ma vương tức là một loại chúng sanh khác loài người nhưng thường lui tới trong cõi người, mà mắt phàm ít ai có thể trông thấy được)


9- NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG CỦA MAH( MOGGALL(NA 

Sáu tháng trước khi Phật nhập Niết-bàn, sự tịch diệt đã tách rời lần cuối cùng đôi bạn Thánh nhơn Sàriputta và Mahà Moggallàna. Sàri-putta nhắm mắt vào ngày trăng tròn tháng Kattika (vào khoảng giữa hai tháng 10 và tháng 11 Dương lịch).

Sàriputta viên tịch ngay nơi quê hương ngài đã chào đời, và trong nhà của cha mẹ, rất xa người bạn cao thượng Mahà Moggallàna. Phải chăng hai vị Thánh Tăng ấy đã đắc quả A-la-hán tại hai nơi khác nhau, nên họ cũng viên tịch ở hai địa điểm khác nhau, mặc dù họ đã từng trải qua bao nhiêu kiếp không thể tách rời nhau được?

Và chẳng bao lâu, sau khi Sàriputta viên tịch, Ma vương (Ma(ra), hiện thân của tội lỗi và thần chết, đã tìm cách hãm hại Maha( Mog-galla(na bằng cách xâm nhập vào bên trong thân thể của vị Thánh Tăng này. Ma vương phá phách khắp ngũ tạng lục phủ nhưng không thể nào gia hại nổi Đại đức Mahà Moggallàna, vì thiền lực của ngài vẫn an trụ trên đỉnh đầu, còn Ma vương thì không dám lên gần trên đó.

Tuy nhiên, Mahà Moggallàna vẫn hiền từ bảo Ma vương rằng: “Này Ma(ra! Ngươi mau ra khỏi thân ta. Tuy tâm hồn ta hoàn toàn thanh tịnh không bao giờ có tà niệm gia hại chúng sanh nhưng ác nghiệp mà ngươi đang làm sẽ khiến cho thần thông ta tự động phát tác thì hậu quả tất đưa ngươi vào địa ngục!”.

Ma vương nghe thế sợ hãi vô cùng, liền biến thành một vật rất nhỏ, ẩn núp trong ruột già của Đại đức Mahà Moggallàna. Y nghĩ rằng: “Ngay cả Đức Phật cũng chưa chắc chắn tìm ra ta!”.

Chợt Ma vương nghe Mahà Moggallàna nói: “Này Ma(ra! Luân xa thần (Chakra) trong thân ta không có chỗ nào là không thể chiếu tới, vậy ngươi mau ăn năn kẻo ác nghiệp thêm dày!”.

Ma vương bây giờ rất đỗi kinh ngạc, nhưng còn hy vọng là Mahà Moggallàna nói mò, chứ không biết xác thực hiện y ẩn núp chỗ nào. Nhất thời Ma vương yên lặng.

Đoạn Ma vương nghe Thánh Tăng nói tiếp: “Này Ma(ra, ngươi đang khoảng giữa ruột già của ta. Chớ lầm lẫn cho là ta không biết!”.

Bấy giờ, Ma vương không còn cách nào làm khác được. Y liền nương theo ngõ miệng của Mahà Moggallàna thoát ra ngoài, và hiện nguyên hình đứng đối diện với Thánh Tăng này.

Mahà Moggallàna liền báo cho Ma vương lần đầu trong ngày hôm nay, mà ngài đã biết rõ gốc tích bao nhiêu ngàn đời nghiệp quả trước của hắn. Ngay cả con cháu, ma binh, giòng dõi hắn còn bao nhiêu ngài cũng biết nốt.

Rồi Mahà Moggallàna dùng ba pháp Thần trụ là Thiên nhãn thông, Tha tâm thôngTúc mạng thông để khuất phục Ma vương bằng một cách hòa nhã! Sự sử dụng thần thông này về sau được ghi trong Kinh Majjhima Nika(ya số 50 với tựa đề là: “Mahà Moggallàna đã tự thuật về tiền kiếp”.

Sau đây là những điểm chính những gì vị Thánh Tăng này nói:

“Thuở Phật quá khứ tên là Kakusandha xuất hiện vào Đại kiếp trái đất (Bhaddakappa), đem diễm phúc đến cho tam giới chúng sanh, với năm vị Phật khác. Ngài đã sống bằng tuổi thọ trung bình của con người là bốn trăm ngàn năm. Và khi sự tăm tối đầu tiên trong cái tuổi thọ vàng son ấy bắt đầu che áng bởi vua chúa thiếu đức tánh tu thân, nên bỏ mất thiện tâm. Rồi lòng tranh giành ích kỷ bắt đầu xuất hiện. Do sự suy đồi đó, sức sống và tuổi thọ của loài người bị giảm xuống còn một nửa”.

Thuở ấy, Mahà Moggallàna chính là Ma(ra (Ma vương) hoành hành các cõi trời Dục giớithế gian với cái tên là Du(simàra. Ma vương ấy có một “Ma chị” tên là Ka(li sanh được một đứa con trai, sau này trở thành Ma vương, đóng vai thần chết vào thời kỳ Đức Phật Thích Ca.

Như vậy, Ma vương đang đứng trước mặt kia không ai khác hơn là hàng con cháu của tiền thân Mahà Moggallàna từ một đại kiếp quá khứ.

Vì khi làm Ma vương trong thuở xa xôi ấy tiền thân Mahà Moggallàna đã si mê tấn công một vị đại đệ tử Phật quá khứ bằng cách hiện thành một đứa bé, lấy những mảnh chén bể, liệng vào đầu của vị đại đệ tử Phật kia cho đến khi đổ máu.

Khi Đức Phật Kakusandha thấy vậy bèn khuyên rằng: “Ma vương! Sao ngươi ác độc thế, nên biết hồi tâm! Ngay cả quỷ Sa-tăng cũng có lúc hối lỗi”.

Phật nói dứt, và chỉ trong nháy mắt, toàn thân Du(simàra liền tiêu tan ra khói và Ma(ra bị đọa vào trong địa ngục sâu nhất.

Trước đó chẳng bao lâu, Ma vương là “Vua” của các cảnh địa ngục thì bây giờ chính Ma vương là “nạn nhân” của địa ngục. Lúc trước Ma vương là tay hành hạ tội phạm, bây giờ Ma vương phải chịu tất cả những gia hình tương tự. Đó là pháp thay đổi nhanh chóng trong cái Samsa(ra (Càn khôn sinh tử đồ).

Trải qua không biết bao nhiêu ngàn năm, tiền thân Mahà Moggallàna phải chịu nhiều đau khổ trong cảnh địa ngục để trả quả ngu muội, nông nổi, xúc phạm đến một vị Thánh Tăng. Mười ngàn năm khác, tiền thân của Mahà Moggallàna còn chịu cầm cố trong một địa ngục mang mình người đầu cá, giống như họa sĩ Pieter Breughel đã vẽ những sinh vật trên một bức tường nói về địa ngục vậy.

Ở đó, cứ mỗi khi “Phạm Ma” bị hai ngọn giáo trừng phạt đâm xuyên qua trái tim thì sẽ biết rằng thời gian trên dương thế đã trải qua hai ngàn năm rồi. (Theo Majjhima Nikàya số 50)

Bây giờ thấy lại Ma vương (Ma(ra), Mahà Moggallàna chợt nhớ đến những hãi hùng trong vòng luân hồi quá khứ (Samsa(ra) mà hiện tại ngài được hoàn toàn giải thoát, nên tâm hồn ngài trở nên thanh tịnh, Phổ lực công tự động phát tác làm rung chuyển mặt đất, khiến Ma vương hoảng sợ chạy mất.

Sau khi Ma vương đi rồi, Mahà Moggallàna tự nhủ: “Đây là kiếp chót của ta! Sự sanh tử chắc chắn sẽ chấm dứt! Là một Thánh nhơn ta không thấy có lý do nào để ham mê một kiếp sống giả tạo. Ta còn sống là bởi vì thân thể ta chưa đến lúc tiêu hoại. Tuy trong mình ta có thần thông, ta thừa sức sử dụng phép lạ để sống lâu bằng một kiếp trái đất, nhưng ta làm vậy ích lợi gì? Ta nên để cho “Quỷ vô thường” biểu dương bản chất tự nhiên của nó!”.

Như nhiều nhà Hiền triết vĩ đại khác ở Đông phương (Á châu) và cũng như chư Thánh Tăng thời Đức Phật, Mahà Moggallàna đã lưu lại hậu thế một loại tự thuật dưới hình thức kệ ngôn gọi là Theraga(tha( (Tôn Túc Kệ Ngôn) trong đó ngài đã tóm lược những pháp chính ngài tu tập để được giải thoát, và xuyên qua bao nhiêu tiền kiếp cho chí đời sống sau cùng, ngài vẫn giữ đúng hạnh nguyện không lo âu, không thối chuyển! Biết bao hạnh phúc kỳ diệu trong quả vị giải thoát và các thần thông thượng thừa đã làm cho những “kẻ khác” tràn ngập phỉ lạc, mắc dính trong những “hạnh phúc thần tiên” nhưng đối với Mahà Moggallàna, ngài vẫn thản nhiên như một ngọn núi phủ đầy hoa! (Ý nói ngọn núi không bao giờ biết hãnh diện trước sự vững chắc và vẻ đẹp của mình).

Những kệ ngôn của ngài trong Theraga(tha( có thể tóm tắt bằng một câu đại ý như sau:

“Không còn cái vòng sanh tử luân hồi nào (Sama(ra) trong tam giớibần Tăng chưa khám phá. Cũng không còn một quyền lực vô minh nào có thể che áng được Thánh tuệ của bần Tăng. Khổ não từ nay sẽ không còn gia hại bần Tăng nữa, vì bần Tăng đang sống trong một phẩm cách thanh tịnh vượt khỏi tất cả sự đau đớnbất an của kiếp luân hồi!”.

Khởi đầu Theraga(tha(, kệ ngôn nói: “Ở đâu và khi nào những kẻ khác tham lam, ích kỷ, thì Mahà Moggallàna giữ cuộc đời ẩn dật, hài lòng với lối sống thanh đạmgiảm thiểu thèm muốn”. (Theragàthà, các câu từ 1446 đến 1449)

Thuở nọ có một cô gái làng chơi xinh đẹp tìm cách dụ dỗ, Mahà Moggallàna liền dứt khoát từ chối. Ngài từ chối như Đức Phật đã từ chối sự quyến rũ của những nàng con gái Ma vương. (Theragàthà, các câu từ 1150 đến 1157)

Khi Sàriputta, người bạn cao thượng nhất của ngài viên tịch, ngài không bị khích động hay bị đau buồn một cách thống thiết như Ananda (lúc ấy chưa đắc quả A-la-hán). Ngược lại, Mahà Moggallàna đã nhận tin bạn mình qua đời một cách nghiêm trangthanh tịnh. (Theragàthà, các câu từ 1158 đến 1163)

Tiếp theo, Theraga(tha( (kệ ngôn) chuyển sang những câu nói về bản lãnh siêu phàm của Mahà Moggallàna. Chẳng hạn như chuyện ngài đã làm lung lay nhiều tòa nhà của một tu viện bằng ngón chân (câu 1164), chuyện ngài nhập định một cách vô ngại trong khe núi giữa cơn mưa gió sấm sét (câu 1167). Rồi tư cách ẩn tu một cách bình thản ở những nơi xa xôi hẻo lánh, ngài quả thật xứng đáng làm người thừa tự Đức Phật và đáng cho các hàng Phạm Thiên lễ bái (câu 1169).

Riêng những câu Theraga(tha( từ 1169 đến 1173 là những câu Mahà Moggallàna khuyên nhủ một người Bà-la-môn dị đoantà kiến khi người ấy thấy Đại đức Mahà Moggallàna đi khất thựcphỉ báng. Mahà Moggallàna ôn hòa cảnh cáo lão Bà-la-môn về những ác ý và các hành động xấu xa như thế, khuyên vị này nên kính trọng các bậc Thánh nhơn! Những câu kệ ngôn số 1176 cũng là kệ ngôn Mahà Moggallàna tán dương Sàriputta.

Còn các kệ ngôn số 1177 đến 1181 dường như là những lời của chính Đại đức Sàriputta ca ngợi Đại đức Mahà Moggallàna.

Tiếp theo là những câu từ 1182 đến 1186, Mahà Moggallàna dùng để tự kiểm soát lại phép tu chứngđạt được quả vị giải thoát của mình như bổn phận trên hết mà ngài đã hoàn tất.

Cuối cùng, các kệ ngôn từ 1187 đến 1208 là những kệ ngôn thuật lại Mahà Moggallàna cảm thắng Ma vương như thế nào, tương tự như bản Kinh có tựa “Đối Diện Thần Chết” tìm thấy trong bộ Majjhima Nika(ya (Trung A Hàm) số 50 đã nói trên đây vậy.

(Lời phụ giải của Dịch giả: “Ma vương” trong ngôn ngữ Phật giáo thường được dùng với hai hàm ý: Hàm ý thứ nhứt ám chỉ tử tính trong nhục thân con người, nghĩa là khi nào có một thân thể sinh hoạt là khi ấy có sự có mặt của “tử tính”. Hành động dù bằng thân hay bằng ý không gì khác hơn là tạo một chu kỳ năng lực, trong đó sự “tiêu thụ” các tế bào phải diễn ra và Tử tính (tức các tế bào cũ phải diệt) đương nhiên phát hiện. Hàm ý thứ hai: Ma vương tức là một loại chúng sanh khác loài người nhưng thường lui tới trong cõi người, mà mắt phàm ít ai có thể trông thấy được).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8026)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35563)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19701)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11711)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23199)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13359)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5848)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10625)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10362)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10063)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20872)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6207)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6859)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8899)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6024)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18163)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6737)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6557)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13023)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5875)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7896)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10209)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7879)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9877)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24556)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36414)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11555)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10050)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10010)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7889)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9374)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8667)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6910)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12326)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5802)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13003)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14578)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12445)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10959)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16716)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8487)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11358)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7050)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46723)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13513)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8401)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17861)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18185)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15809)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6963)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31259)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9585)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21632)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33330)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35675)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33056)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26390)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41424)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40364)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20061)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29686)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18883)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22728)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22452)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49017)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11974)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11168)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18010)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15120)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13120)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19727)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant