Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

01. Thời niên thiếu

12 Tháng Giêng 201200:00(Xem: 8738)
01. Thời niên thiếu


Cuộc đời tôn giả Mục Kiền Liên

Tác giả: Hellmuth Hecker - Dịch giả: Nguyễn Điều

1- THỜI NIÊN THIẾU

Trong một ngôi làng nhỏ, gần thủ đô vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha, nay thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ), thuở xưa có một đứa bé chào đời, đặt tên là Kolita Moggallàna. Đứa bé ấy sau này là Đại đức Mục-kiền-liên (Mahà Moggallàna).

Kolita Moggallàna thuộc giòng dõi Mudgala, tức là “Thiên văn gia”. Theo ngữ căn thì danh từ Moggallàna phát nguồn từ chữ Mudgala (một dòng dõi chuyên nghiên cứu Thiên văn học rất cổ).

Ngôi làng của Kolita không đông dân nghèo ở, mà hầu như chỉ dành cho những đại tộc Bà-la-môn cư ngụ. Thân sinh Kolita vốn là con một giòng họ danh giá, và đa số các chức sắc cao cấp trong làng thuộc giòng họ này.

Là công tử xuất thân từ một giai cấp “cao quý” và thuộc giòng dõi được mọi người tôn kính, phụ thân của Kolita thuở ấy chẳng khác nào Tiểu vương.

Bởi thế Kolita lớn lên trong một khung cảnh sang trọng không thiếu thốn bất cứ món gì. Cậu bé Kolita ấy đã được giáo dục hoàn toàn theo truyền thống Bà-la-môn giáo, một truyền thống căn cứ vào luật Nhân quả, dựa trên tất cả những hành động. Dĩ nhiêntruyền thống giáo dục ấy đề cao sự tin tưởngmột đời sống này phải tùy thuộc vào những nghi lễ cúng bái hằng ngày.

Gia đình Kolita có một mối thâm giao đặc biệt với một gia đình Bà-la-môn khác ở ngôi làng bên cạnh. Vào ngày Kolita chào đời, gia đình Bà-la-môn kia cũng đón mừng sự đản sanh một đứa bé trai khác đặt tên là Upatissa (sau này là ngài Xá-lợi-phất).

Cả hai cậu bé lúc khôn lớn đã trở thành đôi bạn rất thân, không ai có thể tách rời chúng được. Làm bất cứ việc gì, cả hai cũng đồng tình với nhau, khi chơi đùa cũng như khi buồn chán. Người ta thấy cậu bé Kolita ở đâu là cũng thấy cậu bé Upatissa ở đó. Tình bạn của đôi thiếu niên kia không những chỉ bền chắc thuở thiếu thời, mà còn kéo dài đến trọn đời, khi cả hai ngoài tám mươi tuổi.

Đặc điểm là đôi bạn ấy chẳng bao giờ bất đồng ý kiến, cũng chẳng bao giờ có một sự hiềm khích dù là nhỏ nhất, ngay cả trong trường hợp gặp chuyện khó xử hay bất bình.

Tuy nhiên, tánh tình hai cậu bé khác hẳn nhau. Trong khi Upatissa là một người xông xáo, mạnh dạn và tháo vát, thì Kolita lại là một thanh niên rất bảo thủ, và chỉ biết gìn giữ, phát triển những gì đã có. Vả lại, vị trí của đôi bạn trẻ trong hai gia đình cũng hoàn toàn chênh lệch. Kolita là con cả và cũng là con một, thì Upatissa lại có ba người anh và ba người chị. Nhưng tình bạn đôi thanh niên này rất sâu đậm, sâu đậm đến độ mà cả hai dường như không nghĩ đến nữ giới, mặc dù với tuổi thanh xuân đầy nhựa sống và không thiếu hụt một món gì.

Mỗi thanh niên có một số thuộc hạ để tùy tùng vui chơi, học hỏirèn luyện thể xác cũng như tinh thần. Khi thưởng ngoạn và thể thao trên những dòng sông thì nhóm Kolita cỡi ngựa, và nhóm Upatissa dùng kiệu. Nghĩa là hai thanh niên ấy, cũng không tránh khỏi cái thời thanh niên đắm chìm trong sang giàu và nhựa sống.

Tại Vương Xá thành (Rajgaha), thủ đô xứ Ma-kiệt-đà (Magadha) hằng năm có một kỳ hội rất linh đình, gọi là “Hội Sơn Thần” (trước tế lễ thần núi, sau để dân chúng có một dịp liên hoan vui thú). Dĩ nhiên đôi thanh niên công tử này cũng được mời tham dự.

Ban tổ chức đã dành cho họ ghế ngồi danh dự, từ đó Kolita và Upatissa có thể mục kích dễ dàng toàn bộ khung cảnh trình diễn. Đôi thanh niên đã cười vang trước các màn thích thú và cũng khích động trước những hồi gay cấn. Khả năng diễn xuất của các tài tử quả đã làm cho cả hai say mê, say mê đến độ mà họ nhận lời đến thưởng thức tiếp ngày hội chợ thứ ba. Nhưng trong ngày sau này, khi văn nghệ bỗng chuyển sang những bi kịch tử biệt sanh ly giữa cuộc đời và huyền thoại cứu rỗi, đôi bạn bất thần không tìm thấy cao điểm lý thú nữa. Mặc dù đã nghe xướng ngôn viên hùng hồn tuyên bố chương trình hấp dẫn của ngày thứ ba, họ vẫn không cảm thấy thú vị.

Và trong đêm thứ hai ấy, đôi bạn Kolita và Upatissa đã trằn trọc không an giấc. Những hình ảnh trong hai ngày qua cứ ám ảnh đôi thanh niên. Trong khi thao thức, Kolita đã suy nghĩ: “Các cảnh tượng mà ta đã nhìn thấy ở hội chợ sẽ cho ta bài học gì? Có gì xứng đáng hơn để cho ta ngồi xem không? Cứ tiêu khiển như thế, ta sẽ thu thập lợi ích nào hay chỉ trong một thời gian nữa, chính những tài tử đầy quyến rũ kia sẽ già yếu. Họ sẽ trở thành chính những nhân vật trong bi kịch mà họ đã đóng. Rồi cái chết sẽ bắt họ từ giã cõi đời, và tiếp tục cuộc hành trình sanh diệt bất tận do lòng khát vọng của họ chủ động? Rồi chúng ta cũng thế! Những tài tử này không giúp nổi chính họ giải quyết vấn đề sanh tử thì hòng gì họ có thể thức tỉnh được ai tìm ra con đường giải thoát? Xem thế, chúng ta phí uổng thời gian mà thôi, thay vì phải tìm ra con đường giải thoát!”.

Upatissa cũng thế, sau ngày hội chợ thứ hai về, đêm ấy chàng không tài nào nhắm mắt được. Những ý tưởng tương tự như Kolita cũng đến với chàng. Upatissa suy tư rất nhiều về những bí ẩn và huyền thoại được mô tả trong bi kịchliên quan đến cái thực tế tái sanh (Luân hồi) và những thú vui giả tạo luôn luôn che kín bản chất khổ đau bằng cách ngụy trang cho cuộc đời hiện tại một cái gì kích thích người ta hưởng thụ hơn là quan tâm đến tương lai, đến một kiếp sống khác. Upatissa tự đặt câu hỏi: “Phải chăng sự vui thú giả tạo này là nguyên nhân làm cho mọi người không nhận ra ảo ảnh và tăm tối trước sự thật?”.

Vào sáng ngày thứ ba, khi cả hai đến dự cuộc lễ Kolita liền hỏi Upatissa:

– Bạn chắc có điều gì bận tâm? Sao bạn không vui vẻ như trước?

Upatissa thành thật trả lời:

– Tôi tự hỏi các khoái lạc trong âm thanh và cảnh sắc này có ích lợi gì? Những thứ ấy quả thật vô nghĩa và không giá trị. Điều đáng để cho tôi phải làm là cần tìm kiếm một con đường giải thoát, giải thoát khỏi sự tàn phá khắc nghiệt của luật Vô thường, tìm kiếm một cách thoát ly khỏi những tin tưởng không thật về sự sống, một thứ hiện tượng đầy giả tạo, mà ai trở thành nạn nhân sẽ rơi vào trong hố sâu thăm thẳm, hay đi mãi trên một vòng tròn vô nghĩa? Ấy chính là điều đã lởn vởn trong đầu óc tôi và bắt tôi phải suy nghĩ! Nhưng còn bạn, này Kolita! Bạn rõ ràng là cũng đang tư duy một cái gì khác chứ không còn vui vẻ?

Kolita trả lời:

– Những điều bạn vừa bày tỏ cũng chính là tâm sự của tôi! Tại sao chúng ta phải ngồi đây để chứng kiến những cảnh tượng bất lành giả tạo? Chúng ta phải tìm kiếm một con đường dẫn đến sự thanh khiết, bình an!

Khi Upatissa nghe rõ sự thố lộ mối băn khoăn của người bạn thân, chàng rất vui mừng liền tán thành:

– Đây là một ý nghĩ rất tốt đẹp đã phát sanh đến chúng ta một cách tự nhiên, không có thành kiến nào chi phối cả! Vậy thay vì chúng ta uổng phí một đời để ràng buộc với những hưởng thụ vô ích, chúng ta thử dốc lòng tìm kiếm một giáo lý giúp chúng ta tìm ra con đường giải thoát. Và để thực hiện, chúng ta phải từ bỏ nhà cửa và của cải trở thành kẻ vô gia đình, đi hành hương khắp bốn phương trời, không để những khoái lạc vật chất ràng buộc, tự do thảnh thơi tìm Đạo, như con chim ngàn cất cánh!

Kể từ đó đôi thanh niên quyết định sống một cuộc sống đời đạo sĩ (Giống như ngày nay chúng ta thấy vẫn còn một số tu sĩ du phương trên khắp các nẻo đường nước Ấn Độ để tìm kiếm một Tôn sư, một Guru (tiếng Ấn Độ có nghĩa là Thầy để dắt dẫn mình tu theo một sở nguyện nào đó).

Khi Kolita và Upatissa bày tỏ quyết định của mình đến những thuộc hạ tùy tùng, những thanh niên xu hướng đều chấp thuận, và hầu hết tham gia vào chuyến trường chinh tầm đạo ấy. Những thanh niên thuộc hạ của Kolita và Upatissa cũng thoát ly gia đình, thoát bỏ sợi dây giai cấp của Bà-la-môn ([1]) mà họ hằng đeo trên người, cắt tóc, cạo râu, rồi mặc vải sô màu đất, một thứ thường phục của những khất sĩ du phương. Tất cả cùng dẹp qua một bên những biểu hiện phân biệt giai cấp và những đặc quyền của gia tộc Bà-la-môn giáo, để bước vào cuộc đờigiai cấp của những đạo sĩ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8068)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35720)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19819)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11783)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23309)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13437)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5873)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10674)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10442)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10120)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20970)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6231)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6877)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8929)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6057)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18196)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6401)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6775)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6586)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13095)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5904)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7924)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10263)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7912)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9905)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9111)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6014)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24601)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36525)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7769)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11587)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10083)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5262)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5455)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10056)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7921)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9397)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8688)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46651)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6933)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12431)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5842)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14605)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13095)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12526)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14656)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12551)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10997)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9672)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16769)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8507)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5997)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9991)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6409)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11409)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7095)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46827)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13541)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8447)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6895)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9219)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6213)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6942)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17968)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18297)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15906)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6991)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31337)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9609)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7733)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21704)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34250)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33432)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14279)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35751)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13038)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15806)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13723)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33147)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26515)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41496)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40443)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20117)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33783)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29722)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33764)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18942)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22816)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22555)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49077)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 12004)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11190)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22609)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18052)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15164)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22757)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16026)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13141)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19782)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12093)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant