- 01. Cáo Bạch
- 02. Sơ Lược Tiểu Sử
- 03. Ban Tổ Chức & Chương Tình Tang Lễ
- 04. "Xưng Tán Công Hạnh và Cầu Nguyện" - HT Tín Nghĩa
- 05. Khấp Nguyện Hòa Thượng Bổn Sư - HT Nguyên Siêu
- 06. Điện Thư Phân Ưu
- 07. Chỉ Bấy Nhiêu Thôi
- 08. Hình Ảnh Lễ Nhập Kim Quan
- 09. "Dòng Suối Từ" - Hạnh Cơ
- 10. Kính Lạy Giác Linh Ôn - Tâm Đức Hậu
- 11. Nhớ Lại Ân Xưa - Nguyên Siêu
- 12. Tưởng Niệm Thầy... - Tâm Tú
- 13. "Long Sơn In Bóng" - Tâm Chơn
- 14. Bậc Bồ Tát Hiện Hữu Trong Đời Vốn Bình Dị Đến Vậy - Thích Giải Hiền
- 15. Cánh Nhạn Lưng Trời - Thích Hoằng Trí
- 16. Cho Để Con Tu Cứu Đời - Thích Nguyên Chánh
- 17. Lời Tưởng Niệm - GHPGVN
- 18. Tiễn Ôn Theo Chân Phật - Quảng An
- 19. Hoài Niệm Ân Sư - Phù Vân
- 20. Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng Bổn Sư - Nguyên Từ
- 21. Nhớ Thương Ôn - Thích Khinh An
- 22. Lễ Cầu Nguyện và Thọ Tang Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Chí Tín Tại Chùa Phật Đà
- 23. Học Phật - Vĩnh Hảo
- 24. Hầu Thầy Vào Cảnh Vô Dư Niết Bàn - Nguyên Siêu
- 25. Dòng Thơ Giấu Lệ - Tâm Không Vĩnh Hữu
- 26. CD Nhớ Lại Ân Xưa
- 27. Cội Bồ Đề - TN Diệu Phúc
- 28.Bảo Y Ôn Ban
HẦU THẦY VÀO CẢNH VÔ DƯ NIẾT BÀN
Lễ Cung Tống Kim Quan Nhập Bảo Tháp
26 tháng 9 năm 2013
Thành kính đảnh lễ Giác Linh Hòa Thượng Bổn Sư thùy từ chứng giám
Con kính lạy Giác Linh Thầy tha thiết
Tiễn đưa Thầy cách biệt sơn khê
Ngọn đồi Trại Thủy trăng thề
Sớm đưa gió thoảng chiều quê sương chùng
***
Chùa Long Sơn chấn động
Đồi Trại Thủy bồi hồi
Thầy đi cách biệt xa xôi
Trong giờ nhập Tháp xẻ đôi cõi lòng
7:00 giờ sáng nay, Lễ Cung Tống Kim Quan Thầy nhập Bảo Tháp, trên đồi Trại Thủy, sau cốc Ôn Trí Nghiêm.
Quý Ôn Trí Nghiêm, Ôn Trừng San, Ôn Đỗng Minh đều nhập Bảo Tháp nơi đây. Ngẫm ra, chốn này lại là nơi dừng chân hóa độ khi công viên quả mãn của chư bậc Thạch Trụ Tòng Lâm của tỉnh Khánh Hòa, Nha Trang.
Có lẽ tỉnh Khánh Hòa hiền lành như ý nghĩa và tên gọi của nó, cho nên quý Ôn từ phương xa về làm Phật sự và dừng chân luôn ở nơi này, dưới mái chùa Long Sơn từ thuở khai sơn, khi còn là ngôi chùa làng bé nhỏ.
Ôn Trí Nghiêm người tỉnh Phú Yên, Tuy Hòa. Ôn Đỗng Minh người Bình Định, Quy Nhơn. Ôn Trừng San, tuy là người địa phương nhưng ở trên thành, Diên Khánh, và Thầy từ Huế vào. Vì nhân duyên hóa độ mà Thầy dừng chân lại nơi này, từ thuở làm điệu, sơ tâm xuất gia cho đến ngày thành bậc Trưởng Lão Hòa Thượng. Thầy sống nơi đây và cũng viên tịch nơi đây. Cũng như Quý Ôn từ thời trước đến nay, quý Ôn, quý Thầy dừng chân đứng lại dưới mái chùa Long Sơn. Cốc Tre Vàng của Ôn Đỗng Minh. Am Mây Bạc của Ôn Trí Nghiêm. Cốc Bình Minh của Ôn Giải An. Ngay cả Ôn Đức Minh cũng thế. Người tứ xứ đến ở mảnh đất an lành Khánh Hòa làm nên Phật sự. Ngay cả Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang cũng vậy.
Khánh Hòa đất lành, người hiền, hiếu khách nên mời gọi, tiếp đón tất cả - Đất lành chim đậu - như xứ Trầm Hương, lời của nhà thơ Quách Tấn, hay Hoa Khế Lưng Đồi, nhà văn Võ Hồng diễn tả. Địa linh thì có nhân kiệt. Đất của Già Lam, Phạm Vũ nên có Thánh Tăng, Bồ Tát ẩn tu.
Đất Khánh Hòa un đúc khí thiêng vượng tú mà sinh ra Bồ Tát Thích Quảng Đức thời đó. Chừng ấy không thôi cũng đủ thấy được rằng đạo Phật ở tỉnh Khánh Hòa thấm sâu vào nếp sống tâm linh người dân, Phật tử nhuần nhuyễn để cùng làm lợi ích cho đời cho đạo, nên các bậc hóa thân Bồ Tát, Tổ Đức Thiền gia mới tùy duyên trú ngụ để hành Phật sự trên mảnh đất ven bờ biển xanh, cát trắng, thường được gọi là miền Thùy Dương cát trắng nên thơ.
Kính Bạch Giác Linh Thầy,
Nhớ khi xưa, thuở còn làm điệu, Thầy cho con đi học với các chú Câu, chú Chỉnh, chú Hảo, chú Bình, chú Hường... nhưng vì chúng điệu đông, không đủ phòng ốc nên đêm đêm các chú ôm chăn mùng, chiếu gối lên chánh điện chùa ngủ nghỉ.
Thời gian cứ thế trôi qua, ngày thì ăn cơm bằng cà-mèn do bà Ba, bà Cả nấu, quét rác, tưới cây, đi học mà lớn dần theo năm tháng bên cạnh Thầy, cạnh người Cha hiền lành, bình dị, mộc mạc, đơn sơ.
Nhớ lại thời Pháp nạn 63, trước cửa chùa, nơi tam cấp đi xuống, tầng trên là bàn thờ của chư Tôn Đức Tăng Ni, Phật tử đã vị pháp thiêu thân, đã hy sinh cho pháp nạn ấy, Thầy đã cùng quý Ôn lo mọi chuyện, cơm ăn, nước uống và nhiều Phật sự khác nữa, khi ấy con cũng nhỏ như các chú điệu khác có biết gì đâu.
Giờ đây, hồi tưởng lại những gì đã có trong thời của Thầy và quý Ôn thì nay đã không còn nữa, tất cả đều ra đi.
Cả một thế hệ quý Ôn thuở ấy, giờ chẳng còn mấy ai, người mất quá nhiều, không làm sao bù đắp kịp.
Thầy lo Phật sự, Thầy làm việc người, Thầy chăm sóc từ con ong cái kiến, dường như chẳng từ nan việc gì. Thầy không giặt áo, Thầy chẳng phơi Y. Việc tự thân Thầy chẳng nhờ. Cứ mỗi lần con vào nhà Thiền, nơi Thầy tiếp khách với cái giường nhỏ Thầy ngồi nơi đó. Chung quanh, từ trên xuống dưới có đủ mọi thứ, Thầy đã không cho con dọn phòng, mà còn nói:
“Đồ để đó, ai tới xin thì mình có sẵn mà cho họ, khỏi mất công tìm kiếm.”
Chai dầu cạo gió, hộp bánh bích quy, sữa bột trẻ con, tiền lẻ… Bề bộn vật dụng để dành sẵn cho người cần. Hạnh của Thầy là thế đó, giống như Hàn San, Thập Đắc hai vị Bồ Tát tu hạnh đầu đà, ăn cơm thừa canh cặn của chúng Tăng, tối kéo nhau vào xó bếp ngủ.
Nhìn chiếc xích đu bên hiên chùa, nơi Thầy ngồi hơn ba mươi năm qua thì mọi người cũng thấu hiểu vật dụng thường ngày của Thầy là những gì rồi. Nếp sống đơn giản, không lệ thuộc vào vật chất bề ngoài, chỉ với chiếc áo tràng đà mỗi khi Thầy bước chân xuống tam cấp nhà Thiền, đi ra sân trước, bách bộ quanh chùa, lên cốc Ôn Trí Nghiêm, Ôn Đỗng Minh mới mặc, nhưng điều đặc biệt là Thầy chỉ mặc có một tay trái, còn tay áo bên phải buông thõng, chẳng xỏ tay vào, ngoại trừ khi lễ lộc, tiếp khách hoặc đi ra ngoài, xuống phố thăm nuôi bệnh nhân và đám sám.
Con liên tưởng đến chư vị hóa thân Bồ Tát, Thiền Sư nghịch hạnh có lắm chuyện kỳ đặc, nghịch đời mà có lẽ Thầy là một trong những vị Bồ Tát kỳ đặc, nghịch đời ấy. Kỳ đặc, nghịch đời ở chỗ, mặc dù quanh năm suốt tháng Thầy chẳng tắm, Y Hậu, áo quần chẳng giặt, chẳng phơi, ấy vậy mà chẳng có mùi hôi. Phải chăng Thầy thuộc hàng “nội bí Thinh văn, ngoại hiện Bồ Tát” nên những thứ phàm tình chúng sinh ấy đều biến mất. Để rồi hôm nay, bao người nghĩ về Thầy, viết về Thầy, nói về Thầy cũng có cùng nhận xét giống như con vậy. Ai ai khi nhắc đến Thầy cũng đều cảm nhận được nếp sống dung dị, đơn sơ của Thầy, người chỉ biết lo cho tha nhân mà quên cả thân mình. Một đời sống phạm hạnh của bậc Thánh giả. Nhưng bạch Thầy, Thầy là bậc Thánh giả đến không vướng mắc, đi chẳng câu nệ có không, mất còn, nhưng chúng con chưa có được cái tâm an nhiên, tự tại như Thầy.
Giờ này, chỉ còn chiếc xích đu trơ trọi bên thềm chùa, không còn bóng dáng Thầy ngồi đó như ngày nào. Không có Thầy để tiếp quý Thầy, quý Phật tử nơi ấy nữa, để cho mỗi người một xâu chuỗi, một quyển kinh, một bức hình Kim Thân Phật Tổ, hay tấm hình cảnh chùa Long sơn… nghĩ đến đây lòng con quặn thắt, bồi hồi.
Kính bạch Thầy,
Chỉ cần nhìn thấy Thầy còn ngồi nơi chiếc ghế xích đu ấy, không làm gì hết, nhưng ấy là linh hồn, là sức sống linh thiêng, màu nhiệm của chùa Long Sơn, của bao thế hệ người đã qua và còn bao thế hệ người sau sẽ đến.
Thầy ngồi nơi chiếc xích đu, thời gian như một nửa đời người, trông như bóng Cha già che chở cho đàn con. Như cội tùng cổ thụ sớm che nắng, chiều hứng mưa cho bao loài chim muông, cỏ cây tươi thắm. Chiếc ghế xích đu ấy giờ chắc cũng buồn lắm, biết có ai còn để ý đến nó không? Chiếc ghế xích đu mất Thầy như chúng con đã mất Thầy. Chỉ mong có người lưu tâm đến nó, cất giữ lại nơi ấy như một bảo vật, để kỷ niệm như bảo tòa Kim Cương, Thầy đã ngồi để làm Bồ Tát hạnh.
Ngày xưa, Đức Thế Tôn ngồi trên bảo tòa Kim Cang dưới cội Bồ Đề mà thành đạo. Bây giờ Thầy ngồi trên ghế xích đu mà thị tịch, thật bất khả tư nghì cho hạnh nguyện của bậc Đại sĩ.
Mỗi lần nhìn Thầy trong bức hình thờ nơi phòng làm việc của con, nhìn thấy đôi chân mày quắc thước, dài rậm, bạc trắng hiền từ như Tiên ông, nhưng Thầy là bậc Đạo sư chứ không phải Tiên ông, Thầy đeo nơi cổ xâu chuỗi 108 hạt, và thêm xâu chuỗi 18 hạt cầm trên đôi tay chắp lại. Thấy Thầy như thấy Phật chung quanh Thầy, từ cổ đến tay đâu đâu cũng là Phật.
Sáng nay, trên chánh điện chùa Long Sơn hương trầm lan tỏa, hòa quyện vào vách chùa, mái chùa, ngàn cây, kẽ lá, vào lòng người như muốn lưu lại hình ảnh Thầy. Từng bước chân của Thầy, từng lời nói của Thầy, từng hình bóng của Thầy như tô sâu, in đậm nơi đây, nơi chiếc ghế nhà Thiền, nơi gối quỳ chánh điện, nơi Trai đường với chư Tăng và nơi in dấu cuối cùng của chiếc xích đu lẻ bạn. Ấy là ước muốn của con người, của sự vật, nhưng giờ đã đến ba hồi chuông trống Bát Nhã trầm hùng, thanh thoát để tiễn đưa Thầy vào cõi Vô Dư.
Trước sân chùa, nơi tôn trí Kim quan Thầy, hàng ngàn chư Tăng Ni, Y hậu chỉnh tề, trang nghiêm chấp tay thành kính. Hàng hàng lớp lớp đệ tử tại gia cũng như Gia Đình Phật Tử … lắng tâm mật niệm bái biệt Thầy, trong nỗi đau của người con mất Cha. Lư trầm, hương án, bê, tích, lọng… có Tứ Thiên Vương che lọng hầu Thầy. Đoàn âm công thỉnh Kim Quan Thầy lên vai, bắt đầu lên dốc đồi Trại Thủy.
Cũng con đường mòn ấy. Cũng những cây xanh, lá hoa núi rừng ấy, nhưng sáng hôm nay, cảnh vật như quạnh hiu, buồn thảm, héo sầu… như thấy mình mất mát một cái gì quá to lớn mà gần một thế kỷ qua mình đã có ở nơi đây. Có những con đường mòn lên xuống, những khóm trúc, bụi tre, những giàn thanh long, những hàng phượng vĩ, những vách đá sau chùa. Có tất cả, được xông ướp hình bóng Thầy như hương sen ngào ngạt.
Núi rừng đồi Trại Thủy
Chìm lẳng lặng miên man
Vách chùa rưng rưng khóc
Sân chùa giọt lệ tràn.
Ngàn người tiễn đưa, và hàng ngàn người cúi đầu thầm niệm Nam Mô… cánh cửa Bảo Tháp được mở ra, Kim quan Thầy được tôn trí nơi đó, giữa cảnh núi rừng tịch mịch, cây cao bóng cả, rợp mát đất trời thiên nhiên mầu nhiệm.
Câu niệm Phật cuối cùng: “Nam Mô Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật.”
Thầy Thượng Phẩm Thượng Sanh.
Cánh cửa Bảo Tháp khép lại. Thầy nằm bất động thiên thu giữa núi rừng trăng sao, sương đêm và gió sớm.
Đây chỉ là nhục thân, tứ đại của Thầy, còn Giác Tánh trạm nhiên, cái linh minh đổng triệt thì Thầy đã trở về Pháp thân, chân như. Thầy tiếp tục con đường hóa độ chúng sinh.
Di ảnh Thầy thờ sau Hậu tổ, mọi người đều đã ra về.
Cảnh chùa vắng lặng!
Một cảm giác trống vắng lạnh lùng, bâng khuâng, thiếu thốn…
Mất Thầy như mất cả hình ảnh từ hòa, dung dị. Mất cả tấm lòng từ bi, chăm sóc, yêu thương.
Con ngồi đây nghĩ về Thầy, về một cảnh đời 50 năm qua, giờ như bóng câu cửa sổ. Bao lớp người trước đã đi qua, bao lớp người sau rồi lại đến. Những tiếp nối vô cùng của cuộc tử sinh.
Ba tiếng chuông gia trì nhẹ nhàng, trầm ấm, quỳ trước di ảnh Thầy, cầm nén hương nhất tâm cầu nguyện để hầu Thầy vào cảnh Vô Dư Niết Bàn.
Kính nguyện Thầy Cao Đăng Phật Quốc.
Chùa Phật Đà, ngày 26 tháng 9 năm 2013
Đệ tử
Thích Nguyên Siêu