Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Biển trí tuệ

27 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 3621)
15. Biển trí tuệ

dauc-dat-lai-lac-ma-con-trai-toi


15. Biển trí tuệ



Gần ba năm sau khi Lobsang Samten ra đời, năm 1935, tôi sinh ra Lhamo Dhondup, người con trở thành Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Chồng tôi bệnh nằm liệt giường suốt hai tháng trời trước khi Lhamo Dhondup chào đời, nếu cố gắng đứng dậy, ông sẽ thấy chóng mặt rồi bất tỉnh. Ông nói với tôi rằng mỗi lần như vậy, ông trông thấy mặt của cha mẹ mình. Ban đêm ông không ngủ được và điều này gây khó khăn vì ông làm cho tôi thức trong khi tôi phải làm công việc vào ban ngày. Lúc đó tôi nghĩ ông chồng chơi xấu mình, nhưng bây giờ tôi biết là không phải như vậy, đó chỉ là một trong số những sự kiện kỳ lạ xảy ra trong ba năm trước khi Lhamo Dhondup ra đời.

Trong khoảng thời gian đó đàn ngựa của chúng tôi phát khùng, lần lượt từng con một. Khi chúng tôi mang nước đến cho chúng, chúng chạy tới lăn lộn ở trong nước, chúng không thể ăn uống gì được cả, cổ của chúng cứng lại và cuối cùng chúng không thể đi được, tất cả mười ba con ngựa đã chết hết. Đây là một sự kiện đáng xấu hổ cho gia đình và là một thiệt hại lớn, vì ngựa là tiền bạc. Sau đó là nạn đói trong ba năm. Chúng tôi không có một giọt nước mưa, chỉ có mưa đá hủy diệt mùa màng. Mọi người gần chết đói, nhiều gia đình phải bỏ đi nơi khác để tìm đất sống. Trong số bốn mươi lăm căn nhà, rốt cuộc chỉ còn lại mười ba căn. Gia đình tôi sống còn chỉ vì được tu viện Kumbum giúp đỡ và cung cấp thực phẩm. Chúng tôi sống bằng đậu và gạo từ trong kho của tu viện.

Diki Tsering 3


Bố mẹ và Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (Ngài được mẹ bồng trên tay)

Lhamo Dhondup được sinh ra lúc sáng sớm trước khi mặt trời mọc. Tôi ngạc nhiên khi thấy chồng mình đứng dậy khỏi cái giường và có vẻ như chưa bao giờ bị bệnh. Tôi nói với ông là mình đã sinh con trai, và ông trả lời rằng đây chắc chắn không phải là một đứa trẻ bình thườngchúng tôi sẽ cho con đi tu. Lúc đó Chushi Rinpoche ở Kumbum đã viên tịchchúng tôi hy vọng đứa con mới sinh này là hóa thân của ngài. Sau khi Lhamo Dhondup sinh ra, gia đình chúng tôi không có cái chết nào hay những sự kiện kỳ lạ hoặc xui xẻo nào xuất hiện. Trời đã mưa trở lại và sự thịnh vượng cũng đã trở lại sau những năm cơ cực.

Ngay từ lúc đầu đứa con này đã khác với những đứa con của tôi. Ngài là một đứa trẻ trầm tư, thích ở một mình trong nhà, ngài luôn gói ghém quần áo và những vật dụng nhỏ của mình, khi tôi hỏi ngài đang làm gì vậy, ngài nói rằng đang chuẩn bị để đi Lhasa và sẽ đưa tất cả chúng tôi đi cùng. Khi chúng tôi đi thăm họ hàng hay bạn bè, ngài không bao giờ uống trà trong một cái chén nào khác ngoài cái chén trà của tôi, ngài không bao giờ để cho ai ngoài tôi đụng vào những cái mền của mình, và ngài không bao giờ để chúng ở một nơi nào khác mà chỉ để ở cạnh mền của tôi. Nếu gặp một người gây sự, ngài sẽ lượm một cái que và đánh người đó. Nếu có người khách nào của chúng tôi châm thuốc lá, ngài sẽ nổi giận. Bạn bè nói với chúng tôi rằng vì một lý do nào đó không rõ, họ sợ ngài dù ngài còn nhỏ tuổi. Tất cả những điều này diễn ra lúc ngài mới hơn một tuổi và chưa biết nói nhiều.

Một hôm ngài nói với chúng tôi rằng ngài là người từ trên trời xuống. Lúc đó tôi nhớ đã có một điềm báo kỳ lạ, đó là một tháng trước khi sinh ngài, tôi nằm mộng thấy có hai con sư tử tuyết màu lục và một con rồng màu xanh bay ở trên không, chúng cười với tôi và chào tôi theo kiểu Tây Tạng truyền thống: hai bàn tay đưa lên trán. Về sau tôi được biết rằng con rồng là Đức Đạt Lai Lạt Ma và hai con sư tử tuyết là vị tiên tri Nechung (vị tiên tri của quốc gia Tây Tạng) hướng dẫn Đức Đạt Lai Lạt Ma về nơi tái sinh. Qua giấc mộng này, tôi biết rằng đứa con của mình sẽ là hóa thân của một vị lạt ma cao cấp nào đó, nhưng tôi đã không dám mơ tưởng rằng con của mình sẽ là Đức Đạt Lai Lạt Ma.

Khi Lhamo Dhondup được hơn hai tuổi một chút, phái đoàn tìm kiếm Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đến nhà chúng tôi ở Taktser. Những vị trong đoàn là Lobsang, Tsewang, một “Tsedun” (viên chức chính phủ), Khetsang Rinpoche thuộc tu viện Sera (về sau bị người Trung Quốc tra tấn đến chết) và những người khác. Họ đến nhà chúng tôi lần đầu tiên vào tháng mười một hay tháng mười hai, lúc trời đang mưa tuyết lớn, tuyết phủ trên mặt đất dầy hơn một thước và chúng tôi đang dọn tuyết khi họ đến. Chúng tôi không nhận ra người nào trong số họ, chỉ biết rằng họ phải từ Lhasa đến, nhưng họ không nói cho chúng tôi biết về sứ mạng của họ.

Họ nói rành tiếng Tsongkha, vì họ đã ở Tsongkha ba năm để tìm Đức Đạt Lai Lạt Ma. Họ đã được biết rằng họ sẽ tìm thấy Đức Đạt Lai Lạt Ma vào buổi sáng sớm ở một nơi có toàn mầu trắng. Đoàn người ngừng lại ở trước cửa nhà chúng tôi và nói rằng họ đang ở trên đường đi tới Sanho nhưng đã đi lầm đường. Họ xin tôi dành cho họ mấy căn phòng để nghỉ qua đêm. Tôi mời họ dùng trà, bánh mì và thịt khô. Sáng sớm hôm sau, họ nhất định trả tiền cho tôi vì tôi đã tiếp đãi họ và ngựa của họ đã được cho ăn. Họ chào từ biệt rất nồng ấm. Sau khi họ đi rồi, chúng tôi được biết đây là phái đoàn đi tìm Đức Đạt Lai Lạt Ma, nhưng không bao giờ chúng tôi nghĩ rằng họ đến nhà chúng tôi với mục đích nào đó.

Dalai_Lama (98)Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13, viên tịch năm 1933

Dalai_Lama (15)

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, chào đời năm 1935 (Ất Hợi)


Ba tuần sau đoàn người trở lại nhà chúng tôi. Lần này họ nói rằng họ đi tới Tsongkha và xin chúng tôi làm ơn chỉ đường cho họ, chồng tôi chỉ dẫn cho họ, và họ đi tiếp. Hai tuần sau họ trở lại lần thứ ba. Lần này Khetsang Rinpoche cầm hai cây gậy khi ông đi vào hiên nhà chúng tôi, nơi Lhamo Dhondup đang chơi đùa. Vị Rinpoche đặt hai cây gậy ở một góc, con trai của chúng tôi đi tới, để một cây gậy qua một bên rồi cầm cây gậy kia lên, đánh nhẹ lên lưng của vị Rinpoche và nói rằng cây gậy là của mình, tại sao Rinpoche lại có nó. Những người trong đoàn đưa mắt nhìn nhau một cách đầy ý nghĩa, nhưng tôi không hiểu một lời nào trong tiếng Lhasa mà họ nói với nhau.

Sau đó, khi tôi đang ở trong bếp, uống trà trong cái ‘kang”, Khetsang Rinpoche đi vô. Tôi nói chuyện với ông một cách dễ dàng vì ông nói thông thạo tiếng Tsongkha cũng như tiếng Trung Hoa. Khi chúng tôi ngồi ở đó, Lhamo Dhondup thọc hai bàn tay của mình xuống dưới vạt áo dài bằng lông thú của Rinpoche và giựt một trong hai cái áo ngắn bằng gấm bên trong mà ông đang mặc. Tôi mắng con trai mình, nói rằng con đừng có nghịch phá với vị khách. Cậu bé lại lôi một xâu chuỗi từ trong áo của Rinpoche và nhất định nói chuỗi hạt đó là của mình. Rinpoche nhẹ nhàng nói rằng ông sẽ cho cậu một xâu chuỗi mới, vì chuỗi hạt mà ông đang xài đã cũ rồi, nhưng Lhamo Dhondup đã đeo chuỗi hạt đó lên cổ của mình. Về sau tôi được biết xâu chuỗi đó là của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 tặng cho Khetsang Rinpoche.

Tối hôm đó chúng tôi được phái đoàn mời đến nói chuyện. Họ ngồi trên một cái “rang” ở trong phòng của họ. Ở đằng trước họ là một cái tô đựng kẹo, hai xâu chuỗi và hai cái trống “damaru” (loại trống nhỏ có hai mặt và có cán để cầm). Họ mời con trai chúng tôi ăn kẹo, cậu bé chọn một cây kẹo đưa cho tôi rồi đến ngồi với họ. Từ lúc nhỏ Lhamo Dhondup đã luôn luôn ngồi ngang hàng với mọi người, không bao giờ ngồi dưới chân một người nào, và vì vậy người ta nói tôi làm hư hỏng cậu bé. Rồi cậu bé chọn một xâu chuỗi ở trên bàn và một cái trống “damaru”. Chúng tôi được biết cả hai vật này là của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13.

Các vị khách tặng chồng tôi và tôi một chén trà và mấy chiếc khăn trắng katag. Họ nhất quyết xin tôi nhận một món tiền như một cách cảm ơn tôi đã tiếp đãi họ. Khi tôi từ chối, họ nói tôi cứ giữ món tiền đó như một vật may mắn. Họ nói rằng họ đang tìm kiếm hóa thân của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 mà họ biết chắc đã ra đời ở một nơi nào đó ở quận Tsongkha. Họ nói rằng có mười sáu ứng viên, và họ đã quyết định chọn con trai tôi. Tối hôm đó Lhamo Dhondup ngồi chơi cùng với họ trong ba tiếng đồng hồ. Về sau họ nói với tôi rằng họ đã nói chuyện với cậu bé bằng tiếng Lhasa và cậu bé đã trả lời không gặp khó khăn, dù trước đó cậu chưa bao giờ nghe người ta nói loại thổ ngữ đó. Sau đó Khetsang Rinpoche nói riêng với tôi và gọi tôi là mẹ, rằng tôi có thể phải rời khỏi nhà để đi lên thủ đô Lhasa. Tôi trả lời rằng tôi không muốn đi vì tôi không thể rời bỏ khỏi đây mà không có ai trông coi cái nhà này. Ông nói tôi không nên nói như vậy, vì tôi sẽ phải đi, khi đến lúc. Ông nói tôi đừng lo nghĩ gì về nhà cửa của mình, vì nếu tôi đi, tôi sẽ được sống rất tiện nghi và sẽ không có sự khó khăn nào cả về vật chất. Ông sẽ đi Tsongkha để gặp viên quan cai trị địa phương, Ma Pu Fang, và nói với ông ta rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma đã ra đời ở Tsongkha và họ muốn đưa ngài về Lhasa.

Sáng sớm hôm sau, khi họ sửa soạn đi, Lhamo Dhondup nắm áo của Khetsang Rinpoche, khóc và xin đi theo. Rinpoche an ủi cậu, nói rằng vài ngày nữa ông sẽ trở lại đón cậu. Rồi ông cúi chào và đặt tay lên trán con trai tôi. Sau khi gặp Ma Pu Fang, họ trở lại một lần nữa. Họ nói rằng có ba ứng viên cho ngôi vị Đạt Lai Lạt Ma. Ba cậu bé này sẽ phải đi Lhasa và một cậu sẽ được chọn dưới bức hình của Tổ Sư Tsongkhapa. Tên của các cậu sẽ được để trong một cái bình, và với một đôi đũa vàng, họ sẽ chọn tên của một ứng viên. Sự thật là họ đã chọn con trai của tôi. Một lần nữa tôi nói rằng tôi không thể đi, nhưng Khetsang Rinpoche thẳng thắn nói với tôi rằng chắc chắn tôi phải đi Lhasa. Ông khẳng định rằng con trai tôi là vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, nhưng ông bảo tôi đừng nói cho bất cứ ai biết điều này.

Bốn ngày sau, bốn người của Ma Pu Fang tới nhà chúng tôi chụp hình ngôi nhà và gia đình chúng tôi rồi nói rằng chúng tôi sẽ đi Tsongkha ngày hôm sau, theo lệnh của Ma Pu Fang. Tôi đang có thai tháng thứ tám và tôi nói rằng tôi không thể đi được. Nhưng họ nói rằng đó là việc quan trọng và cưỡng bách. Gia đình của tất cả mười sáu ứng viên đã được gọi đến.

Chúng tôi đã trải qua tám giờ đi ngựa để tới Tsongkha. Trên đường đi tôi cảm thấy khó chịu, và phải ngừng lại để nghỉ sau mỗi giờ. Ở Tsongkha chúng tôi được đưa tới một khách sạn. Chồng tôi và người chú của ông đưa con trai tôi đến dinh của Ma Pu Fang. Ở đó người ta bảo tất cả bọn trẻ ngồi trên những cái ghế xếp theo hình vòng cung. Những đứa trẻ khác khóc và không chịu buông tay cha mẹ của mình, nhưng con trai của tôi, với vẻ uy nghi so với tuổi non nớt của mình, đi thẳng đến chỗ trống độc nhất rồi ngồi xuống. Khi bọn trẻ được mời kẹo, nhiều đứa trẻ lấy một nắm đầy, còn con tôi chỉ lấy một viên kẹo và đưa ngay cho ông chú của chồng tôi. Sau đó Ma Pu Fang hỏi cậu bé có biết mình đang nói chuyện với ai không. Không ngập ngừng con trai tôi trả lời rằng mình đang nói chuyện với Ma Pu Fang.

Ma Pu Fang nói rằng nếu có một vị Đạt Lai Lạt Ma thì đó là cậu bé này, em trai của Taktse Rinpoche. Ông nói rằng cậu bé này rất khác người, với hai con mắt lớn, lời nóihành vi thông minh, và vẻ uy nghi cao so với tuổi của cậu. Ông cho những gia đình kia đi về rồi nói chồng tôi và tôi sẽ ở lại Tsongkha vài ngày. Trong hai mươi ngày Ma Pu Fang đã tiếp đãi chúng tôi nồng hậu. Vào ngày thứ mười bốn, tôi sinh con và đứa con này chết non sau đó không lâu. Mỗi ngày Ma Pu Fang cho người mang thức ăn tới cho chúng tôi, cho ngựa chúng tôi ăn và đưa tiền để chi tiêu hằng ngày. Ông bảo chúng tôi cứ xem ông như một người bạn. Ông nói rằng chúng tôi không phải là người thường và không phải là tù nhân của ông, và chúng tôi sẽ đi Lhasa. Khi nghe ông nói như vậy, chúng tôi rất sung sướng, nhưng nước mắt chúng tôi rơi xuống. Chúng tôi vừa vui vừa buồn, tôi buồn vì phải xa quê hương và tất cả những gì mình đã quen thuộc trong ba mươi lăm năm qua. Vừa lo ngại vừa hy vọng, tôi rời khỏi Tsongkha đi tới một tương lai vô định.

Về sau tôi nghe Ma Pu Fang đòi chính phủ Tây Tạng trả một số tiền thật lớn để đổi lấy việc con trai tôi được cho đi Lhasa. Chính phủ làm theo lời ông ta để rồi lại bị đòi một món tiền chuộc nữa. Món tiền này được mượn từ các thương gia người Hồi Giáo đang trên đường đi hành hương đến thánh địa Mecca, Ả Rập, ngang qua Lhasa, và họ đi cùng với chúng tôi trong hành trình của chúng tôi đến Lhasa. Tôi cũng nghe nói Ma Pu Fang không thỏa mãn với món tiền chuộc thứ hai này và đòi chính phủ để lại một con tin, sẽ được thả ra khi ông ta nhận được tin Đức Đạt Lai Lạt Ma đã tới Lhasa an toàn. Vì vậy phái đoàn phải để lại Lobsang Tsewang. Sau đó vị này trốn thoát khỏi tay của Ma Pu Fang và trở về Lhasa an toàn.

Khetsang Rinpoche cho tôi biết tất cả những việc này. Chồng tôi và tôi nói với ông rằng họ đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi nói cho Ma Pu Fang biết sự thật. Đúng ra họ nên nói với ông ta rằng chúng tôi sẽ đi hành hương Lhasa, vì như vậy sẽ tránh được những rắc rối này. Rinpoche nhận lỗi của mình, nhưng ông nói rằng nên nói sự thật, trong trường hợp họ bị chặn lại trên đường đi.

Tôi đã biết Ma Pu Fang từ hồi còn nhỏ, vì ông ta quen biết hai người anh của cha tôi. Ông ta thừa kế quyền cai trị từ cha của ông ta. Lúc đó Trung Quốc đang rối loạn. Cuộc nội chiến giữa Quốc Dân Đảng và những người Cộng Sản đang hoành hành. Khi phe Cộng Sản chiếm quyền kiểm soát Trung Hoa, Tsongkha rơi vào tay họ. Tôi nghe nói Ma Pu Fang trốn đi Ả Rập, nơi ông làm công việc dạy học.

Lúc đó Ma Pu Fang cho chúng tôi biết là chúng tôi sẽ đi tới Kumbum, nơi người ta đang sửa soạn cho chuyến đi Lhasa của chúng tôi. Ông ta tặng chúng tôi bốn con ngựa khỏe và một cái lều, và nói rằng nếu gặp rắc rối, chúng tôi phải cho ông ta biết. Tôi vừa sinh con, và theo tục lệ người đàn bà không được rời khỏi nhà của mình trong vòng một tháng sau khi sinh nở. Nhưng anh chồng của tôi ở Kumbum bảo tôi rằng đây là trường hợp đặc biệt và tục lệ này sẽ được du di cho tôi và như vậy việc này sẽ không vi phạm quy luật đạo đức.

Sáu ngày sau khi tôi sinh con (một con gái chết non không lâu sau đó), chúng tôi đi tới Kumbum để ở đó ba tuần. Ở Kumbum tôi dùng nhiều thời giờ may y phục cho mỗi người dùng trong chuyến đi Lhasa. Những người khác ở tu viện cũng bận bịu với công việc sửa soạn.

Chồng tôi và tôi trở lại Taktser một lần cuối cùng để giải quyết công việc ở nông trại. Ở đó tôi sửa soạn cỏ và thức ăn cho lừa và ngựa của chúng tôi, vì phần lớn đường đi Lhasa là vùng khô cằn, không có người ở nên phải kiếm nhiều đồ ăn cho mấy con vật. Tôi cũng gói ghém nhiều trà Tsongkha, bia “chang”, dấm, chà là, trái hồng và y phục mới cho gia đình mình. Vì đối với chúng tôi tu viện Kumbum giống như nhà của mình nên chúng tôi để lại cho tăng chúng tu viện tất cả những món đồ quan trọng ở nhà chúng tôi. Chúng tôi xin họ cầu nguyện cho chuyến đi của chúng tôi, và chúng tôi mời tất cả họ hàng và hàng xóm ăn tiệc tiễn hành. Chúng tôi sắp phải rời khởi nơi đây mãi mãi.

Những người trong gia tộc chúng tôi khóc vì họ nghĩ rằng có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại chúng tôi nữa. Người Amdo chúng tôi nhiều tình cảm và hay biểu lộ nỗi buồn bằng nước mắt, dù họ tránh than khóc khi người thân qua đời. Những người thân đi cùng với chúng tôi mấy ngày rồi trở về nhà của họ. Tôi đã khóc nhiều đến nỗi mắt tôi bị sưng vù trong ngày khởi hành. Chúng tôi nghẹn ngào, không thể nói với nhau những lời chào từ biệt.

Sau đó chúng tôi trở lại Kumbum. Một hôm có hai tu sĩ đến gặp tôi nói rằng có tin không tốt: Lhamo Dhondup không phải là vị Đạt Lai Lạt Ma thật, mà đó là cậu bé ở Lopon. Thực ra họ nói như vậy để trêu chọc con trai tôi. Khi họ đi khỏi, tôi ngạc nhiên thấy con tôi khóc và thở dài một cách khổ sở. Khi tôi hỏi tại sao, cậu bé nói hai tu sĩ đó nói không đúng sự thật, cậu mới chính là Đạt Lai Lạt Ma thật. Tôi an ủi cậu bé và nói rằng hai người đó chỉ nói đùa như vậy mà thôi. Sau nhiều lời dỗ dành, cậu bé cảm thấy an tâm hơn.

Tôi hỏi Lhamo Dhondup tại sao cậu lại muốn đi Lhasa nhiều như vậy. Cậu nói rằng cậu sẽ có nhiều quần áo đẹp để mặc và sẽ không bao giờ mặc quần áo rách nữa. Cậu luôn luôn ghét mặc quần áo rách và không thích bụi bẩn. Nếu có một vết bẩn trên giầy cậu cũng không chịu đi đôi giầy đó. Nếu quần áo có chỗ rách, có khi cậu cố ý xé cho chỗ rách lớn hơn. Những lúc như vậy tôi lại khuyên bảo cậu, nói rằng tôi không có tiền để mua quần áo mới cho cậu và cậu đáp rằng khi lớn lên, cậu sẽ cho tôi nhiều tiền.

Diki Tsering 2a

Mẹ Đức Đạt Lai Lạt Ma, bà Diki Tsering sinh bốn người con trai trước Đức Đạt Lai Lạt Ma ra đời năm 1935: Tsering Dolma sinh năm 1919; Thubten Jigme Norbu sinh năm 1922, Gyalo Thondrup sinh năm 1928 và Lobsang Samten sinh năm 1933; hai người con nữa được sinh ra là Jetsun Pema sinh năm 1940 và Tendzin Choegyal sinh năm 1946. Trong 16 người con của bà, đây là bảy người con không chết non


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8028)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35567)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19703)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11714)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23200)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5851)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10627)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10364)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10066)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20873)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6209)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6860)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8901)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18164)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6738)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6558)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13025)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5879)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7896)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10211)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7879)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9879)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24560)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36417)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11556)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10050)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10012)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7890)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9377)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8668)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6910)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12327)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5803)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14579)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12447)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10961)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16717)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8487)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11359)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7050)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46724)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13514)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8401)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17863)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18187)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15811)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6965)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31261)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9586)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21635)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33331)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33057)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41426)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40365)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20063)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29687)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18885)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22729)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22454)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49018)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11975)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11169)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18011)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15121)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19727)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant