Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 6: Thế Phát Xuất Gia, Tầm Sư, Học Ðạo

24 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 5732)
Chương 6: Thế Phát Xuất Gia, Tầm Sư, Học Ðạo

NHƯ ÁNG MÂY BAY

Cuộc đời của Đại Lão Hòa Thượng
THÍCH ĐÔN HẬU
Đệ tử Tâm Đức phụng sọan
Thất chúng môn đồ ấn hành 2010 USA

QUYỂN HAI:
HÒA THƯỢNG ÐÔN HẬU (1905-1992)
PHONG TRÀO PHỤC HƯNG PHẬT GIÁO


Chương 6: Thế Phát Xuất Gia, Tầm Sư, Học Ðạo

Chị Bảy đột ngột qua đời. Cảnh tượng anh Bảy tay bồng đứa con sơ sinh mới mấy ngày khóc lóc tiễn đưa người quá cố. Cảnh tượng anh Bảy lủi thủi một mình mở cửa mả cho vợ. Cảnh tượng anh Bảy cúng lễ tiểu tường trước chân dung chị Bảy đẹp đẽ, thùy mị lúc thiếu thời làm cho cậu Diệp Trương Thuần thấy cuộc đời vô thường, khổ đau, còn đó, mất đó. Con người sống trong hồi hộp lo âu không có cái gì bền vững. Hình ảnh Hòa Thượng Tâm Tịnh hiện rõ trong tâm khảm, tượng trưng cho cái gì thanh cao, thoát tục, an nhiên tự tại. Cậu muốn có cuộc sống như vậy, tiêu diêu tự tại, không vướng bận vào những luyến ái, dục tình nhân thế. Cậu muốn hiến cả cuộc đời của mình cho lý tưởng cao đẹp, vừa cứu mình, vừa độ người. Một cuộc sống lấy hy sinh, phục vụ làm lý tưởng; lấy nhân ái, vị tha làm mục tiêu. Trong tâm tư của cậu ngày đêm thúc đẩy cậu phải làm một cái gì để có thể thoát khỏi cạm bẫy tử sinh, nghiệp duyên ràng buộc. Hình ảnh của cô Hạnh thỉnh thoảng cũng lởn vởn trong tâm thức cậu, nhưng không đủ sức kéo cậu vào cuộc đời nhân thế. Cậu cảm thấy có phần nào băn khoăn, như đã phụ lòng người thiếu nữ hiền thục. Cậu muốn đền đáp hạnh ngộ tương phùng bằng tình thương bao la rộng lớn hơn.

Sau bao nhiêu đêm trằn trọc, cậu quyết tâm xả bỏ cuộc đời trần thế, tầm sư học đạo. Vào ngày trăng tròn tháng 8 năm Nhâm Tuất (1922), sáng sớm cậu trịnh trọng xin phép phụ thân đi tu. Cụ Kỷ lắng nghe người con trình bày ý nguyện. Cụ có vẻ suy tư. Nửa buồn, nửa vui. Buồn vì sắp xa đứa con thân yêu, vui vì thấy con có chí lớn, muốn hiến thân phụng sự đạo pháp. Cụ lắng nghe, không nói một lời, chỉ lẳng lặng gật đầu.

Một tháng sau vào đêm 18 tháng 9 Âm Lịch, cậu ngồi vào bàn, viết một bức thư để lại cho phụ thân, rồi thu xếp một ít hành lý, vật dụng cần thiết cho chuyến đi lâu dài. Cậu muốn viết thư vì trước mặt phụ thân, cậu không thể trình bày những gì sâu kín trong lòng đối với cha già, đối với anh em, đối với cô Hạnh và gia đình cô, đặc biệtý nguyện xuất gia quá mạnh, dâng lên như ngọn thủy triều.

Sáng hôm sau, ngày 19 tháng 9 năm Nhâm Tuất tức là ngày 7 tháng 11, 1922, cậu thức dậy sớm, pha trà hầu phụ thân, rồi xin phép phụ thân vào Huế tìm đường xuất gia. Cụ Kỷ căn dặn:

– Thầy đã đọc kỹ bức thư của con để lại đêm hôm qua. Suốt đêm thầy không ngủ được, linh tính báo cho thầy biết có chuyện bất thường xảy ra. Thầy ngồi dậy, xuống giường lấy nước uống thì thấy bức thư của con. Thầy rất mừng thấy có người con phát tâm bồ đề, đi theo tiếng gọi xuất trần. Tuy nhiên thầy không khỏi lo ngại. Nếp sống con sắp sửa đi vào thật thiên nan vạn nan, đòi hỏi lòng kiên trìtín tâm mạnh mẽ. Từ đây con sẽ không có người thân bên cạnh. Con tin Tam Bảo, con tin ở đức Quán Thế Âm, thầy khuyên con nếu gặp gì khó khăn trắc trở, con nên cầu nguyện ngài từ bi tế độ. Thầy quen với Hòa Thượng Tâm Tịnh, một cao tăng học hạnh vẹn toàn. Thầy sẽ không viết thư cho Hòa Thượng để gửi gắm con, vì như vậy sẽ làm động niệm chúng điệu trong chùa và giảm đi phần nào chí nguyện xuất trần của con. Tuy nhiên sau khi con được Hòa Thượng Tâm Tịnh chấp nhận, thầy sẽ vào thăm Hòa Thượng và thăm con xem đời sống mới của con như thế nào.

Cậu Diệp Trương Thuần khắc cốt ghi tâm những lời dăn dò của thân phụ. Cậu lạy thân phụ hai lạy tỏ lòng biết ơn công lao dưỡng dục. Sau khi từ giã anh chị em, cậu vội vàng đi bộ đến ga xe lửa, mua vé tàu đi Huế. Cậu mua vé hạng ba của chuyến tàu hàng. Tàu chạy rất chậm, dừng lại nhiều trạm: Hải Lăng, Diên Sanh, Mỹ Chánh, Phò Trạch, Ga Cây Số 10, ga Văn Xá, cuối cùng đến ga Huế. Toa tàu đầy nghẹt người, phần nhiều là người làm ăn buôn bán, thúng rổ, gà vịt ngổn ngang. Ghế ngồi bằng gỗ không đủ chỗ, nhiều người ngồi trên sàn tàu. Ðoạn đường từ Quảng Trị vào Huế không quá 60km mà mất hết hơn hai giờ. Ðoạn đường khá quen thuộc vì đã hai ba lần cậu theo thân phụ vào Huế, nhưng lần này cậu thấy đoạn đường này như muốn trải dài ra trước mắt. Con tàu thì như vô tình, ầm ĩ lao về phía trước không đoái hoài gì đến nỗi lòng nao nao của cậu với bao nhiêu kỷ niệm lui dần về phía sau.

Trong khi cậu Diệp Trương Thuần ngồi trên xe lửa trên đường đến Huế, cụ Kỷ lấy bức thư đọc lại một lần nữa:

Thưa Thầy:

Trước hết con xin lạy Thầy hai lạy gọi là một chút đền đáp công lao nuôi dạy như trời biển của Thầy. Khi mẹ con mất đi, để chúng con lại, Thầy đã gánh vác cả hai vai, nuôi nấng dạy dỗ anh em chúng con khôn lớn đến ngày hôm nay.

Riêng con, Thầy lại sắp tác thành đôi lứa, song giờ đây khi Thầy đọc bức thư này, con biết Thầy sẽ đau buồn lắm, nhưng biết làm sao khi lòng con không muốn vướng vào khổ lụy.

Thưa Thầy,

Chính cái chết đau thương của chị Bảy để lại một đàn con thơ nheo nhóc là một tiếng sét đánh ngang tai con, đã làm cho con tỉnh ngộ.

Nay con xin phép được kể lại với Thầy để Thầy thấy rõ tâm tư của con, là khi ở nhà bác Yến về, con đang vạch một chương trình cho việc xây dựng hạnh phúc sau ngày cưới vợ. Con xin thưa thật với Thầy, là con rất bằng lòng cô Hạnh khi thấy cô ta mặt mày hiền lành, phúc hậu, lại có tư chất đứng đắn như con đã gặp tại nhà bà Yến trong dịp đi theo hầu thầy.

Nhưng than ôi chương trình xây dựng hạnh phúc con vạch chưa xong, bước đi chưa được một đoạn đường ngắn ngủi, thì cái chết bất thần của chị Bảy đã là một hồi chuông cảnh tỉnh cho con thấy rõ được hai chữ vô thường. Vì lẽ đó, con tin rằng số con được đi tu, nên hồi chuông cảnh tỉnh ấy đã điểm vào đúng lúc.

Thưa Thầy,

Chắc Thầy còn nhớ hôm mồng một Tết, vợ chồng anh Bảy đến chúc Tết nhà ta, vợ chồng con cái ríu rít bên nhau trông thật là hạnh phúc. Thế nà chưa đầy một tháng sau thì chị Bảy đã ra người thiên cổ, tang tóc trùm trọn cả gia đình. Thật có ai ngờ!

Chỉ Bảy giờ đây đã được mồ yên, mả đẹp, nhưng còn anh Bảy thì nay một tay phải nuôi dưỡng bốn đứa con thơ thật là tội nghiệp. Cảnh tang thương của gia đình anh Bảy như vận vào đời con. Bỗng nhiên con nghĩ, rồi cũng một ngày nào đó, gia đình con cũng sẽ như gia đình anh Bảy, nếu một trong hai đứa chúng con chết đi, cũng để lại cho nhau một đàn con thơ lúc nhúc như vậy, thì khổ biết nhường nào. Và không đâu xa, nhớ lại ngày mẹ con mất, cũng đã để lại cho Thầy bao nỗi buồn vui với một đàn bốn đứa con thơ dại.

Chính vì những lý do thực tế ấy mà con đã nghĩ nhiều về đời con, nên con xin phép Thầy hiểu cho con và cho con được đi tu theo chí nguyện.

Con biết rằng hiện giờ thì bác Yến mà nhất là cô Hạnh sẽ là người buồn khổ hơn ai hết. Nhưng con tin tưởng thời gianphương tiện sẽ giúp cho cô Hạnh khuây khỏa dần dần Nếu có dịp nào thuận tiện Thầy an ủi cô Hạnh giùm con. Cô nên hy sinh cho con được tu hành đến nơi đến chốn, thì cái ơn ấy con sẽ ghi nhớ và nếu có dịp may nào đó con sẽ xin đền đáp xứng đáng. Nhân đây con cũng xin Thầy nói lại với bác Yến giúp cho con rằng rồi đây khi thời gian phai lạt nhó nhung, nếu có nơi nào xứng đáng, xin bác tác thành đôi lứa cho cô Hạnh để cho con được an tâmtu hành thì công ơn của bác con xin ghi lòng tạc dạ.

Cuối thơ, con xin kính lạy Thầy và chào tất ca anh chị em trong gia đình.

Thư bất tận ngôn.

Con: Diệp Trương Thuần

Cậu Diệp Trương Thuần đến Huế vào lúc 11 giờ 20 trưa. Sân ga Huế hiện ra trong một không gian mênh mông xa lạ. Không có một người thân, không có ai quen biết. Cậu theo đoàn hành khách xuống tàu, tay xách chiếc vali mây đựng một ít áo quần và vật dụng, vừa háo hức vừa lo toan, không biết ý nguyện xuất gia có được thầy, ôn chấp nhận hay không. Cậu đi ra khỏi ga, rẽ phía tay phải, đi dọc theo bờ sông An Cựu đến cầu Nam Giao, quẹo phải, lần mò trên con đường dốc Nam Giao, đi ngang qua chùa Báo Quốc, Thiên Minh, Từ Ðàm cuối cùng đến đền Nam Giao. Cậu rẽ sang tay trái đi xuống dốc đến Tây Thiên Di Ðà Tự, cách nhà Ga Huế trên 4km.

Ngôi chùa uy nghi trong rừng cây xanh tốt giữa một bầu không gian tĩnh mịch tỏa ngát hương ngọc lan, tường vi. Tiết trời cuối thu của xứ Huế nhiều mưa nên màu xanh của lá cây càng xanh tươi và thắm sắc hơn. Cậu Diệp Trương Thuần bước vào sân chùa như bị thôi miên bởi cánh trí quá u nhàn, thanh tịnh. Cậu dừng lại ngắm cảnh chùa. Thình lình ba hồi chuông trống bát nhã dóng lên, chùa cử hành lễ vía đức Quán Thế Âm. Sau vài giây phút ngỡ ngàng, cậu mạnh dạn tiến đến nhà khách, thì gặp thầy Thủ Tọa mà sau này cậu mới biết là thầy Giác Nguyên, đệ tử đầu tay của Hòa Thượng Tâm Tịnh.

Thầy Giác Nguyên (1877-1980) về sau Phật Tử gọi là Ôn Tây Thiên, thế danh là Ðặng Ngộ, sinh năm Ðinh Sửu (1877) tại Phủ Trung, Tuy Phước, Bình Ðịnh, thân phụ là cụ Ðặng văn Gần, thân mẫu là cụ bà Lê Thị Tộ.

Năm lên 6 tuổi, ngài mồ côi cha mẹ nên được bà cô chăm sóc, rồi sau được thái giám Nguyễn đình Huề (hay Hữu) đem về

blankSắc Tứ Tây Thiên Di Ðà Tự (Võ Văn Tường: Việt Nam Danh Lam Cổ Tự, tr. 130)

Huế nuôi dưỡng, vì vậy ngài còn có tên là Nguyễn đình Ngộ, về sau được đi theo dưỡng phụ lên chùa Từ Hiếu. Nhờ cơ duyên ấy ngài xin xuất gia tại chùa Từ Hiếu, thờ tổ Tâm Tịnh làm thầy, lúc đó là mùa xuân năm Tân Mão (1891), ngài vừa đúng 15 tuổi.

Năm Bính Thân (1896) ngài được thọ Sa Di giới, được pháp danh là Trừng Văn, tự là Chí Ngộ. Năm Quí Mão (1903) ngài theo bổn sư ra lập thảo am ở ấp Thuận Hòa, thôn Dương Xuân Thượng, xã Thủy Xuân, huyện Hương Thủy, gọi là Thiếu Lâm Am. Năm Canh Tuất (1910) ngài được thọ Cụ Túc giới tại giới đàn Phước Lâm, Hội An. Cũng năm này ngài được đắc pháp với pháp hiệu Giác Nguyên. Năm Bính Dần (1926) vua Khải Ðịnh ban Sắc Tứ chùa Tây Thiên và cúng pho tượng Phật A Di Ðà. Sau khi bổn sư viên tịch năm 1928, ngài được kế thừa làm trú trì Tây Thiên Di Ðà Tự.

Năm Canh Ngọ (1930) ngài cùng với chư vị tôn túc mở Cao Ðẳng Phật Học Ðường Tây Thiên, thỉnh Hòa Thượng Phước Huệ ở chùa Thập Tháp, Bình Ðịnh ra làm chủ giảng. Từ năm 1949 đến năm 1954, ngài phát nguyện trì tụng lễ sám Hồng Danh Vạn PhậtTam Bảo Kinh. Từ năm 1963 đến năm 1966, mặc dầu tuổi cao, ngài vẫn nhiều lần chống gậy xuống đường tham gia công cuộc vận động bảo vệ Phật Pháp.

Năm Ðinh Mùi (1967) ngài cho thành lập Tịnh Nghiệp Ðạo Tràng Tây Thiên, đến nay vẫn còn sinh hoạt. Ðầu năm Canh Thân, đúng ngày mồng một Tết (16-2-1980) ngài viên tịch, thọ 104 tuổi, 80 hạ lạp. Ngài thuộc dòng Lâm Tế đời thứ 42 tức đời thứ 8 pháp phái Liễu Quán, Nam Hà.

Suốt đời ngài luôn luôn thọ trì pháp môn Tịnh Ðộ. Ngài thường căn dặn đệ tử xuất gia cũng như tại gia: Niệm Phậtpháp môn tối diệu, tối huyền, chẳng có thuốc gì hay hơn thuốc Phật, chữa lành muôn bệnh, nghiệp chướng lâu đời... Niệm Phật phải chuyên cần, mỗi bước mỗi niệm Phật, đi xe cũng niệm Phật, đi bộ cũng niệm Phật, có như thế mới đạt được nhất tâm.

Ngài thường khuyên các Phật tử đến thăm viếng chùa:

Niệm Phật sen nở đợi chờ

Nhân nào quả nấy sờ sờ không sai.

Thiền sư Bích Phong đã tặng ngài bài thơ:

Xu bồi trượng tân kỷ kinh niên

Y bát gia phong khế diệu truyền

Ối vũ ninh tri tâm lạc dã,

Phao chuyên đốn liễu tánh thường viên,

Tang thương kiếp hậu thành như thị

Vinh nhục trường trung thính tự nhiên.

Hồi thủ lao đao tam giới mộng

Thủy chung nhất niệm hướng Tây Thiên

Từ Phương dịch:

Tham thiền học đạo trải bao năm,

Y bát truyền gia khéo lựa tầm.

Khoai nướng thỏa lòng vui lẽ đạo,

Gạch vơi sáng dạthâm tâm.

Biển dâu sau cuộc cờ sinh tử,

Quí tiện trong đời chuyện thế nhân.

Ngoảnh lại rồi thôi ba cõi mộng,

Tây Thiên chung thủy bạn tri âm.

(Thích Hải Ấn & Hà Xuân Liêm: Lịch Sử Phật Giáo xứ Huế, tr. 582-584).

Hòa Thượng Giác Nguyên lúc bấy giờ là Thủ Tọa chùa Tây Thiên, gặp cậu Diệp Trương Thuần niềm nở, từ hòa, ân cần hỏi:

– Anh đi lễ Phật à? Ở mô mà ngó quen quen rứa?

Diệp Trương Thuần chấp tay cung kính vái chào.

Thầy hỏi tiếp:

– Anh có phải từ Quảng Trị mới vô không?

Diệp Trương Thuần hơi ngạc nhiên, tự hỏi tại sao thầy lại biết mình ở Quảng Trị mới vào. Cậu sửa lại thế đứng ngay thẳng rồi thưa:

– Dạ thưa Thầy: Ðúng, con từ Quảng Trị mới vào. Con vào đây để xin phép quí Ôn, quí Thầy cho con đi tu.

Nghe vậy Thầy nhìn cậu với cặp mắt cưu mang:

– Tốt lắm! Ðương còn trẻ tuổi mà cũng ưa đi tu à? Tu cực khổ lắm, con có biết vậy không? Thôi được để ta dẫn con lên gặp Ôn.

Theo sự hướng dẫn của thầy Thủ Tọa, cậu Diệp Trương Thuần đi qua sân sau đến ngoài cửa phương trượng, nơi Hòa thượng Tâm Tịnh mà cậu còn nhớ rõ dung mạo, đang ngồi trên chiếc sập nhìn ra. Thầy Thủ Tọa chấp tay vái rồi thưa:

– Bạch Thầy, có anh này ở Quảng Trị mới vô xin đi tu.

Hòa Thượng hỏi thầy Thủ Tọa:

– Tôi thấy cậu này quen quen. Cậu có phải con cụ Diệp thầy thuốc ở Quảng Trị mà tôi thường hay nhắc đến đó không? Hòa Thượng vừa hỏi vừa nhìn kỹ người thanh niên trẻ tuổi đứng trước mặt từ đầu đến chân.

Thầy Thủ Tọa trả lời:

– Bạch Thầy chính cậu này, người mà Thầy thường nhắc hoài nên khi mới gặp con đã đoán cậu từ Quảng Trị vào. Bạch Thầy cho phép cậu đảnh lễ.

Diệp Trương Thuần đảnh lễ Hòa Thượng ba lạy.

Hòa Thượng vui vẻ hỏi tiếp:

– Cậu có phải là chú học trò học chữ Nho con cụ Phước Ðiền độ nào ta gặp khi ta đến thăm nhà? Chà, mau lớn quá! Tại sao con lại thích đi tu?

Cậu chưa kịp trả lời thì có nhiều Phật Tử đến thăm Hòa Thượng, nên Hòa Thượng giao cậu cho Thầy Thủ Tọa dẫn xuống liêu chúng. Cậu đã được Hòa Thượng chấp nhận cho xuất gia!

Thầy Thủ Tọa dẫn xuống Tăng Phòng để giới thiệu với các sư huynh đệ. Cậu thấy vị nào cũng uy nghi đạo mạo, trang nghiêmthanh thoát, bình dị mà thân tình: Thầy Giác Nhiên cao và gầy, khác hẳn thầy Thủ Tọa Giác Nguyên thấp và mập. Thầy Giác Tiên trán cao, thông minh; thầy Giác Viên thâm trầm, đoan nghiêm; thầy Giác Hải từ hòa dung dị; thầy Giác Hạnh, thanh lịch cao sang. Thầy Thủ Tọa cho biết ngày hôm ấy hai thầy Giác Bổn và Giác Ngạn vì công việc Phật sự nên vắng mặt.

Ða số các thầy đều xuất thân từ Quảng Trị như thầy Giác Nhiên người làng Ái Tử, Phủ Triệu Phong về sau là Ðệ Nhị Tăng Thống, Giáo Hội PGVNTN; thầy Giác Viên, người làng Bích Khê (Hồng Khê), phủ Triệu Phong, khai sơn chùa đặt tên là Hồng Khê để kỷ niệm sinh quán, một nhà sư uyên thâm giáo điển; thầy Giác Hải, người làng Trung Kiên, khai sơn chùa Giác Lâm; thầy Giác Hạnh, người làng Ái Tử, phủ Triệu Phong. Tất cả đều là người Quảng Trị, chỉ trừ thầy Thủ Tọa người Bình Ðịnh và thầy Giác Tiên người làng Dạ Lê Thượng, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, người có công lớn trong công cuộc chấn hưng Phật Giáo miền Trung.

Thầy Thủ Tọa cho biết Hòa Thượng Thanh Ninh Tâm Tịnh là đệ tử của Hòa Thượng Hải Thuận Lương Duyên. Hòa Thượng Hải Thuận Lương Duyênđệ tử của đại lão Hòa Thượng Tánh Thiên Nhất Ðịnh, khai sơn An Dưỡng Am, tiền thân Sắc Tứ Từ Hiếu Tự.

Ðại Lão Hòa Thượng Tánh Thiên Nhất Ðịnh có 41 vị đại đệ tử, trong đó có những vị tiêu biểu như ngài:

– Hải Thuận Lương Duyên (Diệu Giác thiền sư, trú trì chùa Diệu Ðế, Báo Quốc).

– Hải Thiệu Cương Kỷ, kế thế trú trì chùa Từ Hiếu.

– Hải Toàn Linh Cơ, trú trì chùa Tường Vân.

– Hải Nhu Tín Nhậm, trú trì chùa Quảng Tế.

– Hải Trường Pháp Lữ, trú trì chùa Túy Vân, Linh Hựu.

– Hải Hoa Phát Ðạt, trú trì chùa Tịnh Quang, Quảng Trị.

– Hải Trạch Thiên Hoa.

– Hải Phong Vĩnh Mậu.

Ngài Hải Thuận Lương Duyên, bổn sư của Hòa Thượng Thanh Ninh Tâm Tịnh, có nhiều đệ tử, đặc biệt có Cửu Tâm, chín người đệ tử với pháp hiệu có chữ Tâm đứng đầu, đó là:

– Tâm Quảng, trú trì chùa Báo Quốc nhận HT Lương Duyên làm y chỉ sư.

Tâm Truyền, trú trì chùa Báo Quốc.

– Tâm Thể.

– Tâm An, tăng cang chùa Diệu Ðế, khai sơn chùa Thọ Ðức (Châu Lâm ngày nay).

Tâm Thành, khai sơn chùa Từ Quang.

– Tâm Thiền, trú trì chùa Thuyền Tôn.

Tâm Minh, trú trì chùa Ngọc Sơn (Y chỉ sư Diệu Giác, chùa Kim Sơn).

– Tâm Khoan, trú trì chùa Báo Quốc, Thuyền Tôn.

– Tâm Tịnh, khai sơn chùa Tây Thiên.

Hòa Thượng Tâm Tịnh, theo gương Thầy, thâu nhận 9 đệ tử với pháp hiệu có chữ Giác đứng đầu, gọi là Cửu Giác, đó là:

– Giác Nguyên (1877-1980) kế thừa Trú Trì chùa Tây Thiên.

– Giác Tiên (1880-1936) chùa Trúc Lâm.

Giác Viên (1883-1942) chùa Hồng Khê.

– Giác Nhiên (1878-1979) chùa Thuyền Tôn, Ðệ Nhị Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Giác Hải (1882-1938).

– Giác Bổn, chùa Từ Quang.

Giác Ngạn.

Giác Hạnh (1880-1981) chùa Vạn Phước.

– Giác Thanh, hiệu Ðôn Hậu (1905-1992) chùa Linh Mụ, Ðệ Tam Tăng Thống, Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.

Sau khi chào hỏi xong các vị sư huynh, cậu Diệp Trương Thuần được thầy Thủ Tọa dẫn đến cái giường nhỏ dành cho cậu trong Tăng Phòng chùa Tây Thiên, dặn dò đôi lời về nếp sống trong chùa.

Một tháng sau Hòa Thượng Tâm Tịnh chính thức thâu nhận cậu Diệp Trương Thuần xuất gia. Lễ thế phát được tổ chức một cách đơn giản nhưng không kém phần trang nghiêm. Sau khi xuống tóc, theo lời dặn của Hòa Thượng Bổn Sư, chú tiểu Diệp Trương Thuần được giao phó trách nhiệm làm hương đăng, đồng thời dạy chữ Hán cho các điệu trong chùa, làm thị giả Hòa Thượng và giúp các Chú quét dọn sân vườn.

Sáng sớm 4 giờ chú tiểu Diệp Trương Thuần đã phải dậy nấu nước pha trà cho bổn sư khi tiếng chuông sáng bắt đầu. Hòa Thượng bổn sư thích uống nước trà với hoa tường vi, nên chú để sẵn trong túi những đóa tường vi hái từ chiều hôm qua dành để pha trà cho thầy. Bình trà của thầy quá nhỏ nên lúc đầu chưa quen, chú rót nước chảy ra ngoài. Thầy nhỏ nhẹ dạy cách pha trà như thế nào cho nước khỏi chảy ra dĩa. Chùa không có bàn ủi, nhưng áo quần của thầy luôn luôn thẳng thớm. Thầy chỉ cách sau khi phơi áo một vài giờ, ra vuốt cho thẳng. Khi xếp áo quần để dưới mền dằn cho tươm tất. Từng li từng tí thầy hướng dẫn cho chú. Ðây là phương thức huấn luyện chú đi dần vào khuôn khổ thiền môn. Lúc đầu chú hơi khó chịu thấy thầy quá tỉ mỉ, nhưng dần dần chú thấy sự dụng ý của thầy. Thầy còn dạy cách đi, đứng, nằm ngồi. Không được đi quá nhanh, không được vừa đi vừa chạy, trừ lúc gánh nước, chạy đàn. Nằm ngủ không được nằm ngửa, hay nằm sấp mà phải nằm nghiêng phía tay phải. Ngồi không được ngồi chò hỏ, ngồi vách đốc. Ðứng không được nghiêng ngửa... Oai nghi tế hạnh của một nhà tu nhờ những phương thức này mà được duy trìtruyền thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác... Thầy Thủ Tọa, thầy Giác Viên, Giác Nhiên thích uống trà pha hoa soái, nên chú cũng góp hoa soái đưa cho quí thầy.

Sau thời chuông sáng là buổi công phu. Chú theo các Chú các Thầy tụng công phu sáng. Lúc đầu chú chưa thuộc kinh nên chỉ phụ theo, nhưng sau vài tháng chú đã thuộc Lăng Nghiêm, Thập Chú cho thời công phu sáng, Di Ðà Hồng Danh cho thời công phu chiều. Tụng kinh xong chú lo phần hương đăng và giúp các chú quét dọn sân vườn chùa.

Cơm sáng vào lúc 7 giờ. Thường thường là cơm nguội được chiên lại làm cơm sáng. Gọi là chiên nhưng không có dầu, chỉ có một ít tương, nhưng với tuổi của chú, cơm chiên như vậy cũng rất ngon. Dùng cơm xong, chú đi dọn dẹp phòng xá của bổn sư, giặt áo quần cho thầy nếu có. Ðến 9 giờ 30 chú được phép học kinh, luật. Lúc đầu là kinh chú cho hai thời công phu sáng chiều, tiếp đến là kinh Thủy Sám, Ðịa Tạng và Luật Sa Di.

Sau chín tháng đến ngày 10 tháng 6 năm Quí Hợi (ngày 23-7-1923) nhân đại giới đàn Thuyền Tôn, Thừa Thiên Huế, chú được thầy cho thọ giới Sa Di với pháp danh Trừng Nguyên, pháp tự Giác Thanh. Thọ Sa Di được một năm, bổn sư cho phép chú thọ Cụ Túc Giới (Tỳ Kheo Giới) tại đại giới đàn Từ Hiếu, Thừa Thiên Huế, được tổ chức ngày 15 tháng 6 năm Nhâm Tý (ngày 16-7-1924) với pháp hiệu Ðôn Hậu.

Trong đại giới đàn Từ Hiếu Hòa Thượng Bổn Sư làm Ðường

Ðầu Hòa Thượng, Hòa Thượng Thanh Trí chùa Quảng Tế làm Yết Ma, Hòa Thượng Tuệ Pháp trú trì chùa Thiên Hưng làm Giáo Thọ. Quí thầy Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Tịnh Khiết làm Kiến Ðàn. Thầy Tịnh Khiết về sau là Ðại Lão Hòa Thượng Ðệ Nhất Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, thầy Giác Nhiên về sau là Ðại Lão Hòa Thượng Ðệ Nhị Tăng Thống Giáo Hội PGVNTN là hai trong bốn vị dẫn thỉnh đại giới đàn Từ Hiếu lúc bấy giờ.

Từ ngày vào chùa cho đến khi thọ Cụ Túc Giới, Tỳ Kheo Thích Ðôn Hậu đã ghi lại những cảm tưởng, tâm tình, kỷ niệm của mình trong cuốn Hồi Ký “Trên Những Chặng Ðường” do chúng tăng chùa Linh Mụ sưu tập cho ấn hành năm 2000:

Vào chùa được hơn một tháng, tôi thấy không khí sinh hoạt trong chùa sao nó đầm ấm quá, nó yên lành và thanh tịnh quá. Tiếng tụng kinh của quí Thầy vào mỗi buổi sáng mai hay vào lúc xế chiều, hòa trong tiếng chuông, tiếng mõ, tiếng tang nghe thật trầm hùng, thanh thoát. Ðôi khi tôi thấy như mình đang được sống trong một không gian xa lạ nào. Tôi cảm thấy sung sướng, sực nhớ đến khi tôi vừa bước chân vào sân chùa thì nghe ba hồi chuông trống Bát Nhã, tuy là chuông trống cử hành lễ vía đức Quán Thế Âm Bồ Tát, nhưng sự ngẫu nhiên mà được gặp như vậy cũng là một điều hiếm có, vì Hòa Thượng và thầy Thủ Tọa thường nói cho tôi nghe rằng nếu ai gặp như vậy là một điềm tốt lành. Riêng tôi Hòa Thượng dạy chắc chắn tương lai sẽ được thành đạt như ý nguyện. Mà thật vậy. Ở đây tôi thấy có một điều trùng hợp rất kỳ diệu, tưởng chỉ có người trong cuộc mới thấy rõ. Chính tôi đã nhờ đức Quán Thế Âm Bồ Tát cứu tử khi bị mắc bệnh đậu mùa thập tử nhất sinh và chính nhờ quyển Quan Âm Cao Vương Truyện mà tôi phát nguyện tầm sư học đạo. Nay đến ngày tôi vào chùa xin đi tu thì lại gặp ngày Vía của Ngài...

Từ ngày tôi xuất gia cho đến ngày được bổn sư cho phép thọ đại giới tính tròn hai năm mười một tháng. Với một thời gian ngắn ngủi mà tôi đã được Hòa Thượng Bổn Sư cũng như quí Thầy đã dày công dạy dỗ cho tôi được trưởng thành, thật là một nỗi vui mừng không thể nào tả xiết.”

Sau khi thọ đại giới chưa được hai năm thì Hòa Thượng Bổn Sư viên tịch ngày mồng 6 tháng 3 năm Bính Dần tức ngày 7-4-1926. Tỳ Kheo Thích Ðôn Hậu đã ghi lại cảm xúc của mình:

“Ðến đây không ngờ tôi lại phải chứng kiến thêm một cảnh vô thường nữa. Thật là một nỗi đau buồn thấm thía. Bổn sư là vị thầy làm duyên khởi cho mình xuất gia, ơn sâu nghĩa nặng của bổn sư mà mình chưa được hầu hạ mấy cả. Tuổi đời, tuổi đạo còn non nớt mà bổn sư đã vội vã ra đi... Thế là từ đây trong đời sống tu học hàng ngày, dù có quí thầy, quí huynh đệ quấn quýt bên nhau, nhưng tôi vẫn thấy bơ bơ, hiu quạnh!”

Sau lễ Chung Thất của Hòa Thượng Tâm Tịnh vào ngày 25 tháng 5 năm Bính Dần tức ngày 3-7-1926, thầy Thủ Tọa, tức

blankChùa Hồng Khê tại Cầu Lim Xã Thủy Xuân, Huế

Hòa Thượng Giác Nguyên kế thừa trú trì chùa Tây Thiên bàn bạc cùng thầy Giác Tiên, Giác Nhiên gửi pháp đệ Ðôn Hậu sang chùa Thệ Ða Lâm (chùa Hồng Khê ngày nay) do sư huynh Giác Viên vừa xây dựng để học hỏi.

Hòa Thượng Giác Viên là một danh tăng thời bấy giờ, đa văn bác học, thông suốt cả Phật Học và Nho Học. Tại chùa Thệ Ða Lâm thầy Thích Ðôn Hậu kết hạ an cư năm 1926, tình cờ gặp lại bà Yến, người mẹ vợ hụt, đến chùa lễ Phật, cúng dường trai soạn. Cuộc gặp gỡ tình cờ ấy được Hòa Thượng ghi lại như sau:

“Năm ấy tôi được an cư tại chùa Hồng Khê. Trong mùa an cư này tôi phải đối diện với một chuyên hết sức thương tâm. Một hôm giữa thời “quá đường” (thời cúng dường và ngọ trai) thì bà Y và ba bốn đạo hữu từ Quảng Trị vào lạy “quá đường”. Khi chấp tay lạy trước bàn thờ Phật, bà thấy tôi cùng ngồi an cư với chư Tăng, thì nước mắt bà ràn rụa, bà vừa lạy vừa khóc. Mấy đạo hữu cùng đi không hiểu vì lý do gì mà bà khóc và bà cũng không nói gì cho các đạo hữu ấy hay.

“Thời “quá đường” xong, bà theo các đạo hữu ngồi ăn trưa, vừa ăn vừa khóc. Khi thấy tôi đi xuống, bà bỏ đũa chén đứng dậy, đến gần tôi. Lúc ấy tôi bình tĩnh tiếp bà... Bà chưa nói gì mà đã khóc tức tưởi. Các đạo hữu nghĩ bà là người thân của tôi có điều tâm sự muốn nói với tôi nên tránh đi nơi khác. Người thì đi ra vườn xem hoa, người thì lên hầu thăm Hòa Thượng trú trì, bà thì cứ tức tưởi khóc.

“Tôi nghĩ nếu lúc này mà tôi nói ra lời nào chắc bà sẽ khóc to, nên tôi ngồi lặng thinh. Một hồi lâu bà ngẩng mặt lên nhìn tôi, nói một câu ngắn gọn: Tu là cõi phúc. Bác cầu nguyện cho con, à cho Thầy tu hành đến nơi đến chốn, như con, à như thầy ước nguyện. Bác xin lỗi... hu, hu!.”

Sau khi qua học đạo với sư huynh hơn một năm, vào năm Ðinh Mão (1927) nhận thấy pháp đệ tư chất thông minh lại cần mẫn hiếu học, sư huynh Giác Viên bàn với các huynh đệ cho pháp đệ vào tổ đình Thập Tháp, nơi Hòa Thượng Phước Huệ (1867-1945) vừa mới mở Phật Học Viện để đào tạo Tăng tài.

Giã từ Huế, bái biệt huynh đệ đồng môn, rời những ngôi chùa thân thuộc, Tăng sinh Ðôn Hậu cùng quí thầy Vĩnh Thừa, sau này là Hòa Thượng Châu Lâm, bổn sư của Hòa Thượng Thiên Ân (1925-1980), người sáng lập Ðại Học Ðông Phương và chùa Phật Giáo Việt Nam tại Los Angeles, của Hòa Thượng Tiêu Diêu (1892-1963), người tự thiêu cúng dường sắc thân cho Phật Giáo được trường tồn trong mùa Pháp nạn 1963, Thầy Mật Khế, đệ tử của Hòa Thượng Giác Tiên, khai sơn chùa Trúc Lâm, bậc lương đống trong phong trào chấn hưng Phật Giáo Huế, Thầy Chánh Thống, nhà Phật học Nho học nổi tiếng, khai sơn chùa Qui Thiện và thầy Chánh Huy vào mùa Thu năm Ðinh Mão, 1927 lên đường vào Thập Tháp. Hòa Thượng Ðôn Hậu trong Trên Những Chặng Ðường thuật lại: “Ðược vào học ở chùa Thập Tháp, tôi nghĩ đây là một dịp may hiếm có. Có thể nói cả sự nghiệp tu hành của đời tôi đều được mở đầu trong chuyến đi cầu học rất có triển vọng này.”


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8028)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35566)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19703)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11714)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23200)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5850)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10627)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10364)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10066)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20873)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6209)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6860)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8901)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6025)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18164)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6357)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6738)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6558)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13024)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5878)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7896)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10210)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7879)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9878)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9088)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5990)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24559)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36417)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7737)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11555)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10050)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5232)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5426)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10011)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7890)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9376)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8668)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46538)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6910)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12326)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5802)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14578)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12447)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10959)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9645)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16717)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8487)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5976)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9961)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6380)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11359)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7050)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46724)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13514)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8401)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6862)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9181)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6187)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17862)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18185)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15809)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6964)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31260)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9586)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7699)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21634)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34182)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33331)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14243)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35676)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13013)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15784)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13694)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33057)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26392)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41426)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40365)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20063)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33721)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29687)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33735)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18885)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22728)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22454)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49017)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11975)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11169)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22524)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18010)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15121)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22698)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16007)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13121)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19727)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12070)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant