Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nguồn gốc của ký hiệu "chữ Vạn"

10 Tháng Mười 201000:00(Xem: 9418)
Nguồn gốc của ký hiệu "chữ Vạn"


Trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, tên phát xít đầu sỏ Adolf Hitler cầm đầu phần tử Nazi đã thực hiện hành động diệt chủng vô cùng tàn bạo mà loài người không bao giờ quên. Trên lá cờ đảng phát xít Nazi của y có biểu tượng hình blank . Nhưng đó là do Hitler trộm dùng. Trên thực tế, blank blank không bao giờ gắn với tội ác, mà đó là những ký hiệu được loài người phát minh từ thời nguyên thuỷ, tượng trưng cho cát tường, công đức, kiên định thuỷ chung v.v.

 

Một di chỉ vào thời đại đồ đá mới ở Tây Á (khoảng năm 3500 trước Công nguyên) được khai quật ở Persepolis thuộc tỉnh Ostan-e Fars của Iran, trong số những đồ gốm màu thu được có tượng nữ thần tượng trưng cho sinh đẻ, trên vai có ký hiệu chữ thập ngoặt hay chữ Vạn (Svastika) blank. Ở huyện Lạc Đô, tỉnh Thanh Hóa, Trung Quốc phát hiện trên 130 cổ vật vào cuối thời đại đồ đá mới (khoảng từ năm 3300 đến năm 2050 trước Công nguyên), trên đó có khắc hoạ nhiều ký hiệu, trong đó có ký hiệu blank, những cổ vật này thuộc văn hoá Mã Gia Dao vùng thượng du Hoàng Hà Trung Quốc; các học giả Trung Quốc cho rằng người cổ đại dùng những ký hiệu này để ghi sự việc.

 

Châu Âu sau khi bước vào thời đại đồ đồng, blank trở thành ký hiệu của đồ trang sức. Trong nghệ thuật của đạo Cơ Đốc thời kỳ đầu, trên nhiều vật phẩm có thể nhìn thấy ký hiệu blank. Người Polynesia, người Maya ở Nam Mỹ và Trung Mỹ, người Navaj ở Indian ở Bắc Mỹ đều đã dùng các ký hiệu blankblank. Người Navajo Indian xem blanktượng trưng cho thần Mưa và thần Gió. Dân tộc Gennan (Nhật Nhĩ Man) thời kỳ đầu đều thờ chung một thần đó là thần Sấm Sét, hình blank tượng trưng cho cái chùy.

 

Ký hiệu nêu trên ban đầu người ta cho là tượng trưng cho Mặt trời hoặc Lửa, sau đó phổ biến cho đó là tiêu chí của Cát Tường được một số tôn giáo cổ đại dùng đến. Ví dụ đạo Ấn Độ (Hin-duism), đạo Jainism và đạo Manichaeism (cùng một hệ thống với đạo Cơ Đốc) sử dụng. Đạo Ấn Độ, đạo Jainism đều lấy ký hiệu blank làm tiêu chí cho Cát tường, ký hiệu blank được in trước cửa, trên vật dâng cúng và trên sổ ghi. Trong nghi thức tôn giáo của đạo Jaimsm có 8 vật phẩm tượng trưng cho Cát tường, ký hiệu blank là một trong 8 vật phẩm ấy. Trong quyển “Nhập pháp giới phẩm” của bộ “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh” có ghi: Trước ngực Phật Thích Ca Mâu Niđánh dấu blank, có đủ 8 chỗ. Đó là sự thể hiện 1 trong 32 tướng tốt của Phật, ý nghã là “Cát tường hải vân tướng”, tức là tượng trưng cho vận may giữa không gian biển rộng bao la và mây trời. Ký hiệu ấy được in lên ngực của Phật tổ Như Lai được tín đổ phật giáo cho là “Thụy tướng”, tức may mắn, có thể tuôn ra ánh sáng chói lọi, trăm ngàn màu sắc.

 

Từ sự truyền bá của Phật giáo cổ đại Ấn Độ, ký hiệu blank cũng truyền vào Phật giáo Trung Quốc. Thời Bắc Ngụy, trong một bộ kinh thư phiên dịch là chữ “vạn”, nghĩa là “rất”, “hết sức”; ở triều Đường, Huyền Trang và một số người khác dịch là “đức”, tức nhấn mạnh công đức của Phật giáo là vô bờ bến; về sau nữ hoàng Võ Tắc Thiên lại trở về chữ vạn, ý nghĩa là tập hợp lại tất cả cát tường công đức trong thiên hạ.

 

Theo khảo chính của các chuyên gia, ký hiệu blank được phát hiện sớm nhất trên một con dấu tại di chỉ Mohenjo – daro ở phía Nam Pakistan, về sau ký hiệu này được người Aryan tiếp thu. Ký hiệu này từng được sử dụng tương đối rộng rãiẤn Độ trước khi đạo Phật ra đời. Ở thời cổ Ấn Độ, bao gồm cả đạo Phật người ta không sử dụng cố định ký hiệu blank hoặc blank , Ấn Độ giáo cũng cho rằng hai dạng ký hiệu là một, chỉ có khác ở chỗ khi khắc hoạ giới tính của thần, ký hiệu blank biểu thị thần nam giới còn ký hiệu blank biểu thị thần nữ giới. Ở Tây Tạng, đạo Lạt Ma dùng ký hiệu blank.

 

Trong các triều đại Tùy, Đường ở Trung Quốc, trong kinh Phật có khi dùng blank, cũng có khi dùng blank. Đường Tuệ Châu trong "Nhất thiết kinh âm nghĩa" nêu nên lấy blankblank làm tiêu chí cát tường, blank được viết lên cửa miếu thờ, trên tường và những đồ dùng; đạo Lạt Ma cùng dùng ký hiệu blank. Cùng ở Tây Tạng, blank lại là ký hiệu làm tiêu chí tôn thờ của đạo Bon-pa, Tạng ngữ gọi blank là "ung trọng" có nghĩa là "kiên cố". Đạo Bon-pa cho rằng blanký nghĩa "lòng tin kiên định không thay đổi", họ cũng viết blank lên cửa miếu thờ, lên tường, sách kinh v.v. Ở một số địa phương Tây Tạng có tập quán viết blank lên trán thi thể người vừa chết làm chuẩn. Ở Tây Tạng truyền Phật giáo lấy

 

Đạo Bà La Môn có ghi chép blank là tướng lông ngực của chủ thần Vishnu, được gọi là ký hiệu vatsa, ở thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên được dùng vào Phật điển; đến thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên đổi tên thành svastika, đó là tướng quăn của lông trên đầu con nghé, rồi diễn biến thành tướng lông ngực của chủ thần Vishnu, về sau thành một trong mười sáu nhân tướng, rồi thành một trong ba mươi hai nhân tướng.

 

Từ trên có thể thấy được, ký hiệu blank (hướng phải) và ký hiệu blank (hướng trái) đã xuất hiện trong lịch sử văn hoá nhân loại nhiều ngàn năm trước đây. Bất luận ký hiệu hướng phải hay hướng trái đều mang ý nghĩa tốt đẹp, được các tín đồ Phật báo xem là ký hiệu mang màu sắc thần bí tượng trưng cho cát tườngcông đức. Nhưng tên đầu sỏ phát xít Đức Adolf Hitler đã trộm dùng và bóp méo bản nghĩa của ký hiệu ấy chúng dùng “blank” xoay trái hoặc xoay phái 45 độ để làm tiêu chí cho cờ đảng phát xít Nazi của chúng. Hitler đích thân thiết kế lá cờ này. Cờ nền đỏ, giữa là hình tròn màu trắng, giữa tâm là hình blank màu đen. Hitler rất vừa lòng với thiết kế này của y, cho rằng "đó là một biểu tượng thực sự". Trong một quyển sách của y mang tựa đề "Cuộc chiến đấu của tôi" (Mein Kampf), y viết: "Màu đỏ tượng trưng cho ý nghĩa cuộc vận động của chúng ta, màu trắng tượng trưng cho tư tưởng chủ nghĩa dân tộc. Chữ "blank" tượng trưng cho sứ mệnh tranh thủ giành thắng lợi cho cuộc đấu tranh của người Aryan": Sau đó; Hitler dùng ký hiệu "blank" làm phù hiệu đeo ở cánh tay và trên cờ thường cho những đội viên xung phong và những đảng viên đảng Nazi của y.

 

Nguyên nhân dẫn đến việc Hitler chọn ký hiệu "blank" làm biểu tượng cho cờ đảng Nazi, đến nay có những cách kiến giải như sau:

 

Một số học giả cho rằng, sở dĩ Hitler chọn ký hiệu "blank" làm biểu tượng cho đảng Nazi là bởi y căn cứ vào tên của đảng này. Đảng Nazi có tên là đảng "Quốc gia Xã hội" - Quốc xã. Theo tiếng Đức, chữ cái đầu của chữ "quốc gia" và "xã hội" đều là "S", hai chữ "S" ghép lại đan xen vào nhau thì thành hình dạng giống "blank".

 

Một cách kiến giải khác do học giả người Mỹ Robert Penn Waren nêu lên. Waren cho rằng Hitler từ nhỏ đã cuồng nhiệt sùng bái quyền lực, theo đuổi quyền lực. Khi Hitler còn nhỏ, nhà ở gần một tu viện cổ kính. Trong tu viện này, ở những, vị trí như con đường nhỏ qua viện, giếng nước lát đá, nơi ngồi của tu sĩ cho đến trên ống tay áo của Viện trưởng đều có ký hiệu hình "blank". Hitler rất sùng bái quyền lực của Viện trưởng, y xem "blank" là tượng trưng cho quyền lực của vị này, hy vọng đến một ngày nào đó sẽ được trở thành người có quyền lực tối cao như vậy. Waren cho rằng đó là nguyên nhân khiến về sau Hitler chọn chữ "blank" làm phù hiệu cho cờ đáng Nazi.

 

Còn một cách toàn giải nữa cho rằng Hitler chịu ảnh hưởng của một tổ chức bài trừ Do Thái có tên là "Đoàn hiệp sĩ Thánh đường mới" (New Knights of the Temple). Tổ chức này cho rằng người Nhật Nhĩ Man là hậu duệ của người Aryan người Aryan là dân tộc ưu tú nhất nên cần phải giữ gìn huyết thống thuần khiết của họ thì thế giới này mới có tương lai. Quan điểm này rất phù hợp với Hitler. Người khởi xướng của tổ chức này là một nhà truyền đạo kiêm chiêm tinh, ông ấy xem bói cho Hitler và tiên đoán rằng Hitler sẽ trở thành một nhân vật làm chấn động thế giới. Nghe những lời này, Hitler vô cùng phấn chấn. Ký hiệu được dùng làm biểu tượng cho tổ chức nêu trên chính là "blank". Hitler cho rằng người ta đã vứt bỏ tính thuần khiết huyết thống nên đã bị một vị trí của họ ở thiên đường. Muốn khôi phục thần lực của thần tộc thì cần phải thanh trừ dị tộc. Do đó; về sau đi thiết kế cờ đảng Nazi, Hitler liền chọn biểu tượng "blank" giống như tổ chức bài trừ Do Thái nêu trên, đông thời cuồng nhiệt theo đuổi "thuần khiết chủng tộc", không ngừng dấy lên cao trào bài trừ Do Thái.

 

Với biểu tượng blank đầy màu sắc bí hiểm, vô số tín đồ đảng Nazi càng thêm cuồng nhiệt, không từ bất cứ hành động tội ác nào.

 

Sau khi thế lực phát xít hoàn toàn thất bại trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, biểu tượng của Nazi cũng bị đập tan. Thế nhưng tháng 11 năm 2000, một phóng viên báo chí người Anh đã chụp được tấm ảnh biểu tượng phát xít hình "blank" làm bằng cây trong một khu rừng cách thành phố Berlin (Đức) khoảng 110 km. Biểu tượng này được làm bằng 48 cây, mỗi chiều của hình "blank" , dài 60m; vật liệu là loại cây thông rụng lá đến mùa thu và đầu đông lá dần dần biến màu vàng; xung quanh làm bằng thông lá kim 4 mùa xanh tươi. Do đó biểu tượng càng nổi bật. Theo kết quả điều tra của cơ quan hữu quan đây là hoạt động của bọn phát xít mới ngóc đầu dậy, vật liệu do một nhà điền chủ Pháp cung cấp. Khi tấm hình được đăng lên báo, lập tức công chúng kháng nghị rầm rộ, yêu cần Chính phủ Pháp có biện pháp cấp tốc loại trừ tận gốc hoạt động này. Pháp luật của Pháp cũng quy định trong bất kỳ trường hợp nào cũng không cho phép trưng bày công khai biểu tượng của đảng Nazi. Do đó biểu tượng làm bằng cây nêu trên đã nhanh chóng bị xóa sạch.

 

Ký hiệu blank, blank được truyền từ thời cổ đại đến nay mà không bị mất đi, cho thấy đây không phải là ký hiệu thông thường mà có nội hàm đặc biệt.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 5623)
Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc.
(Xem: 5712)
Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ...
(Xem: 5782)
Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu.
(Xem: 5919)
Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột...
(Xem: 5587)
Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chung quanh có một khu rừng lớn.
(Xem: 6216)
Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grêten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi. Ả ngó đông ngó tây...
(Xem: 5974)
Ngày xưa xảy ra một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống.
(Xem: 5456)
Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng.
(Xem: 5858)
Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con.
(Xem: 5519)
Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi.
(Xem: 5966)
Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân.
(Xem: 8002)
Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã Lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp.
(Xem: 7282)
Âu Dã Tử là một kiếm sư đại tài thời Xuân Thu Chiến Quốc. Ông ta đúc ra những thanh gươm rất tốt, chém sắt như chém bùn. Vua nước Việt là Doãn Thường bèn triệu tới...
(Xem: 6464)
Ninh Thích, người nước Vệ đời Xuân Thu. Người có tài kinh bang tế thế. Lúc còn hàn vi, chưa gặp thời, mình mặc áo cộc, đầu đội nón rách, đi chân không...
(Xem: 14514)
Nguyên Nguyễn Tịch, người đời nhà Tấn, là người rất ưa rượu và đàn. Làm quan rồi cáo bịnh về nhà, kết bạn cùng Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàn...
(Xem: 7000)
Thắng trận, Sở Trang vương đời Xuân Thu truyền bày tiệc liên hoan, gọi là "Thái bình yến". Phàm các quan văn võ bất cứ cấp nào đều được tham dự.
(Xem: 12862)
Tây Thi là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt đời Chiến Quốc, có tiếng là "Lạc nhạn" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 12043)
Ngũ Kinh (năm quyển sách) cũng như Tứ Thư là những sách làm nền tảng của Nho giáo. Nguyên trước có sáu kinh nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy Hoàng...
(Xem: 8788)
Tứ ThưNgũ Kinh là những bộ sách làm nền tảng cho Nho giáo. Sách này vừa là kinh điển của các môn đồ đạo Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ của nước Tàu.
(Xem: 14378)
Giả Đảo là một nhà sư giỏi thơ đời Đường. Một hôm trăng sáng, sư cưỡi lừa thong thả trên con độc đạo, định đến thăm nhà một người bạn.
(Xem: 8539)
Lễ tang là lễ đặt ra để tỏ lòng thương trọng và kính thờ người chết. Theo Khổng Tử thì trị thiên hạ "trọng nhứt là ba việc: ăn, tang và tế" (Sở trọng giả, thực tang tế).
(Xem: 6794)
"Ngọc tỉnh liên" là "Hoa sen trong giếng ngọc". Đây là bài phú của Mạc Đĩnh Chi. Ông đỗ Trạng nguyên, khi vào bái yết nhà vua, Trần Anh Tông thấy hình dung ông xấu xí quá...
(Xem: 10524)
Một ông lão ở gần cửa ải Nhạn Môn, nơi giáp giới nước Tàu với Phiên Quốc (Hồ) có con ngựa. Một hôm, con ngựa đi mất. Người quen thuộc đều đến thăm hỏi, chia buồn.
(Xem: 5963)
Đời nhà Đường (618-907), triều Lý Thái Tông (Lý Thế Dân), niên hiệu Trinh Quán năm thứ 13, gần thành Trường An có con sông Kinh, nước trong vắt.
(Xem: 10045)
Đuốc hoa do chữ "hoa chúc" là đèn cầy, nến đốt trong phòng của vợ chồng đêm tân hôn. Tiếng "chúc" thời cổ là "đuốc" tức bó đóm to. Ngày nay gọi là "Hỏa bả".
(Xem: 7144)
Thời xưa, người ta tiễn nhau thường bẻ cành liễu đưa cho người đi. Dương Quan là một cửa ảibiên giới tỉnh Thiểm Tây. Đường thi có bài "Tống Nguyên Nhị sứ An Tây"...
(Xem: 6936)
Hàn Tín người đất Hoài Âm nước Sở đời Tây Hán, thuở hàn vi thường câu cá ở sông Hoài. Có khi cả ngày tìm không được một bữa cơm. Phiếu mẫu thương thình thường cho cơm ăn.
(Xem: 6085)
Tướng nước Yên là nhạc Nghị đem quân đánh nước Tề. Trong vòng 6 tháng mà hạ được 70 thành của Tề. Chỉ còn hai thành thôi là Cử Châu và Tức Mặc đương hấp hối trước lực lượng của Yên.
(Xem: 6162)
Việt Nam, những nghi lễ về cưới gả vốn của Trung Hoa truyền sang từ thời Bắc thuộc (111 trước D.L.) do hai quan thái thú Tích Quang và Nhâm Diên.
(Xem: 6117)
Nước Nam vào thời kỳ Nam Bắc phân tranh (1528-1788). Từ Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê đến nhà Lê trung hưng, nước Nam lại chia làm hai miền: Bắc thuộc họ Trịnh, Nam thuộc họ Nguyễn.
(Xem: 8327)
Bình Nguyên Quân tên Thắng, người nước Triệu đời Chiến Quốc. Được vua Huệ vương cử làm Tướng quốc phong cho đất Bình Nguyên nên gọi là Bình Nguyên Quân.
(Xem: 8809)
Hậu Nghệ có công bắn 9 mặt trời cứu bá tính khỏi chết trong biển lửa nên được nhân dân kính mến, suy tôn làm hoàng đế. Lên làm vua, Nghệ lại cướp giựt của cải của nhân dân.
(Xem: 8215)
Hán đánh triệu. Tướng Hán là Hàn Tín bảo các tướng sĩ của mình: - Hôm nay phá Triệu ắt thành công. Vậy ba quân chỉ ăn cơm sơ qua đỡ lòng...
(Xem: 5840)
Tề là nước tiếp giáp của Lỗ. Trước sự cường thịnh của Lỗ, Tề hầu là Tề Cảnh Công lo sợ bị Lỗ thôn tính. Quan đại phu nước Tề là Lê Di hiến kế...
(Xem: 5794)
Sô Kỵ là một người hiền lại có tài chính trị đời Chiến Quốc, làm Tướng quốc nước Tề dưới triều Tề Uy Vương. Ông hết lòng lo chính sự, thường lưu ý dò xét trong bọn các quan ấp để xem ai hiền, ai không hiền.
(Xem: 5853)
Nguyên nhà Đường từ đời vua Đại Tông (763-765) đến Hy Tông (874-888) thì quốc thế càng suy vi. Phiên trấn hoành bạo ở ngoài, hoạn quan chuyên chính bên trong.
(Xem: 5889)
Đời Xuân Thu, Sái Hầu và Tức Hầu cùng lấy gái nước Trần làm phu nhân. Tức phu nhân là nàng Tức Vĩ nhan sắc tuyệt vời. Nhân khi về thăm cố quốc, ngang qua nước Sái, Sái Hầu mời vào cung thết đãi.
(Xem: 5496)
Trong kho tàng dân ca Việt Nam, trống quân là một loại hát rất bình dânphổ biến tại miền Bắc; và đặc biệt hát trong các dịp hội hè mùa thu...
(Xem: 5977)
Điêu Thuyền là một giai nhân tuyệt sắc đời mạt Hán. Cũng như Tây Thi, Chiêu Quân, Dương Ngọc Hoàn, Điêu Thuyền có tiếng là "bế nguyệt" trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
(Xem: 5297)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
(Xem: 6456)
Đời Tam Quốc, em trai của Ngô chúa Tôn Quyền là Tôn Dực làm Thái thú quận Đan Dương. Dực vốn tính cương cường, nóng nảy lại hay rượu.
(Xem: 6397)
Hội đồng Trạch có cả chục ngàn mẫu ruộng. Theo lời cháu chắt ông kể lại, toàn tỉnh Bạc Liêu bấy giờ có 13 lô ruộng thì hết 11 lô là của ông Trạch.
(Xem: 6224)
Điển tích "Ba đào"- sóng lớn - trong sách Dị Văn lục: Triều Huệ Đế đời nhà Minh, tại huyện Tề Hàng, tỉnh Sơn Nam, có hai vợ chồng Trần Hoá Chiêu, Lương Tiểu Nga.
(Xem: 7708)
"Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu Lưu, tức là chín học phái lớn nhứt hay là chín dòng tư tưởng đời Xuân Thu Chiến Quốc ở Trung Hoa...
(Xem: 9418)
Đời Tam Quốc, nhà Thục đến hồi suy mạt. Thục chúa là Lưu Thiện, con của Lưu Bị, sau khi Khổng Minh chết, nghe lời gian thần là Hoàng Hạo đắm mê tửu sắc, không nối được chí lớn của cha...
(Xem: 8749)
Chu Công tên Đán, người đời nhà Chu (1135-221 trước D.L.), có tài trị nước. "Thổ bộ" do nguyên câu: "Nhất phạn tam thổ bộ" nghĩa là "Một bữa ăn phải nhả cơm ba lần".
(Xem: 6863)
Tư Mã Thiên tự Tử Thường (145-87 trước D.L.), người huyện Long Môn (nay thuộc huyện Hán Thành, tỉnh Thiểm Tây) đời Hán Vũ đế. Cha của ông là Tư Mã Đàm, một nhà văn học danh tiếng làm chức thái sử tại triều.
(Xem: 5593)
"Mây Tần" nghĩa bóng chỉ nhớ nhà, nhớ quê hương, cha mẹ. Còn những tiếng "Mây trắng", "Mây Hàng", "Mây bạc", "Mây vàng" cũng để nói ý nhớ gia đình, nhớ cha mẹ, quê hương.
(Xem: 6508)
"Tiền Xích Bích phú " là một áng văn chương kiệt tác của Tô Đông Pha (1036-1101), một văn hào đời nhà Tống (950-1275). Đông Pha tên là Thức, tự Tử Chiêm...
(Xem: 8573)
Nước Việt, năm Đinh Hợi (1527), Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lên làm vua. Vua Lê Chiêu Tông bị họ Mạc bắt nhốt định giết chết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant