Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi Lăm: Ngoại Đạo Hỏi Phật Về Hữu Vô

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16019)
Tắc thứ Sáu Mươi Lăm: Ngoại Đạo Hỏi Phật Về Hữu Vô

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI LĂM

NGOẠI ĐẠO HỎI PHẬT VỀ HỮU VÔ

 

THÙY: Hình mà vô tướng, tràn đầy mười phương, dàn trải khắp nơi, vô tâm mà ứng, phổ biến cả đất lẫn biển mà không phiền phức; nêu một hiểu ba, thoáng nhìn mà phân biện cân lượng. Dù cho gậy rơi như mưa, hét vang tựa sấm, vẫn chưa đáng được kể là noi theo được bước chân của bậc hướng thượng. Song thử nói xem, thế nào là việc của kẻ hướng thượng? Thử nêu lên xem.

CỬ: Một ngoại đạo hỏi Phật, “Không hỏi hữu ngôn, không hỏi vô ngôn.” Đức Thế Tôn im lặng. Ngoại đạo tán than rằng, “Thế Tôn đại từ đại bi, khia mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào (đạo).” Sau khi ngoại đạo đi rồi, A Nan hỏi Phật, “Ngoại đạo chứng được gì mà nói có chỗ vào vậy?” Đức Phật nói, “Giống như ngựa tốt, chỉ cần thấy bóng roi cũng chạy rồi.”

BÌNH: Việc này nếu thuộc nơi ngôn ngữ, thì tam tạng mười hai phần giáo há là vô ngôn sao? Có người bảo vô ngôn là đúng. Vậy thì Tổ Sư phải mất công từ Tây Trúc qua để làm gì/ Còn như bao nhiêu công án từ xưa đến nay, rốt cuộc phải hiểu như thế nào? Công án này bị rất nhiều người dựa trên ngôn ngữ mà hiểu. Có người gọi là im lặng, có người gọi là ngồi im, có người gọi là mặc nhiên không đáp. May ma chẳng có gì là nhằm nhò cả. Có mấy ai từng rờ rẫm ra được công án này? Việc này kỳ thực không ở trong ngôn ngữ song cũng chẳng ngoài ngôn ngữ. Nếu như các ông chỉ hơi toan bàn cãi là các ông đã ngàn dặm vạn dặm cách xa rồi. Nhìn xem ngoại đạo kia sau khi tỉnh ngộ rồi, mới biết rằng sự việc không ở đây mà cũng chẳng ở kia, không ở phải mà cũng chẳng ở không phải. Thử nói xem là gì vậy?

Thiên Ý Hoài Hòa Thượng tụng rằng, “Duy Ma chẳng bao giờ im lặng, cứ ngồi bàn cãi thành lỗi lầm. Kiếm sắc trong hợp ánh sáng lạnh, ngoại đạo thiênma đều khoanh tay.” Lúc Bách Trượng Thường hòa thượng tham học với Pháp Nhãn, Pháp Nhãn dạy tham câu nói này. Một hôm Pháp Nhãn hỏi, “Ông quan sát nhân duyên gì vậy?” Thường Hòa Thượng nói, “Ngoại đạo hỏi Phật.” Pháp Nhãn nói, “Ông thử nêu lên cho tôi xem thử xem.” Thường hòa thượng vừa định mở miệng Pháp Nhãn đã nói, “Ngưng, ngưng. Ông toan dựa vào chỗ im lặng mà hiểu chứ gì?” Nghe lời ấy, Thường hòa thượng hốt nhiên đại ngộ. Sau đó dạy chúng rằng, “Bách Trượng có ba yếu quyết: uống trà, tự biết và nghĩ. Nếu như các ông vẫn còn toan lý luận hay tư lương, thì các ông vẫn còn chưa thấu triệt.”

Thúy Nham Chân nêu công án này lên, nói rằng, “Lục hợp cửu hữu, xanh vàng trắng đỏ.”

Ngoại đạo hiểu được bốn bộ kinh Vệ Đà[12]. tự cho mình là người toán tri, đi đâu cũng lôi cuốn thiên hạ vào việc nghị luận. Ngoại đạo đặt câuhỏi, toan làm líu lưỡi đức Phật. Đức Thế Tôn chẳng phí chút tơ hào khí lực nào, ngoại đạo lại tự tỉnh ngộ, tán than rằng, “Thế Tôn đại từ đại bi, khai mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào (đạo).” Thử nói xem, đâu là chỗ đại từ đại bi của Đức Phật? Một con mắt của Thế Tôn thấu suốt ba cõi, hai con ngươi của ngoại đạo quán năm tầng trời.

Qui Sơn Chân Như nêu lên rằng, “Ngoại đạo giấu ngọc trong lòng, Thế Tôn tự đề lên cho. Sâm la hiển hiện, vạn tượng rõ ràng.”

Rốt cuộc ngoại đạo ngộ được cái gì? Giống như thể dồn con chó vào chân tường: đến chỗ cùng rồi thì nó phải quay lại mà nhảy cẫng lên. Nếu như các ông buông bỏ so đo với thị phi một lúc, tinh tấn kiên trì, tự nhiên triệt để.

Sau khi ngoại đoạo đi rồi, A Nan hỏi Phật, “Ngoại đạo chứng được gì mà nói có chỗ vào vậy?” Đức Phật nói, “Giống như con ngựa tốt, chỉ cần thấy bóng roi cũng chạy rồi.” Sau này mọi nơi đều nói rằng công án bị gió thổi thành một điều khác.Lại cũng nói rằng giống như đầu rồng đuôi rắn. Đâu là bóng roi của đức Thế Tôn? Đâu là chỗ thấy bóng roi? Tuyết Đậu nói, “Tà chính không phân, lời từ bóng roi. Chân Như nói, “chuông vàng của A Nan reo hai lần, tứ chúng đều nghe thấy. Tuy là thế, song giống như hai con rồng tranh viên ngọc. Làm trưởng thành con rồng của bậc trí giả kia.” Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG

Cơ luân chưa từng chuyển,

Chuyển ắt chạy hai phía.

Gương sáng bỗng lên đài,

Lập tức phân xấu đẹp.

Xấu đẹp phân hề may đen mở,

Cửa từ ở đâu sinh trần ai?

Nghĩ ngựa tốt thấy bóng roi,

Thiên lý truy phong gọi về được.

Gọi về được, bung tay ba lần.

BÌNH: “Cơ luân chưa từng chuyển, chuyển ắt chạy hai phía.” “Cơ” là linh cơ của ngàn bậc thánh, “ luân” là mệnh mạch từ xưa đến nay của các ông. Há không nghe cổ nhân nói, “ Linh cơ ngàn thánh không để gần, rồng sinh rồng con chớ tò mò. Triệu Châu đoạt được ngọc vô giá, Tần Chúa Tương Như đều táng thân.” Ngoại đạo nắm vững được chủ trì được, chưa từng bao giờ động cả. Tại sao vậy? Ngoại đạo nói, “ Không hỏi hữu ngôn, không hỏi vô ngôn.” Đó há không phải là chỗ toàn cơ sao?

Đức Thế Tôn biết ngắm gió để dương buồm, tùy bệnh cho thuốc, cho nên mới im lặng. Toàn cơ đề lên, ngoại đạo thể hội hoàn toàn. Cơ luân xoay chuyển một cách trơn tru, không xoay về phía hữu mà cũng chẳng xoay về phía vô. Không rơi vào đắc thất, không vướng vào phàm thánh, hai biên chấp bị cắt đứt cùng một lúc. Thế Tôn vừa im lặng, ngoại đạo đã lễ lậy. Người bây giờ phần nhiều nếu không rơi vào vô thì cũng rơi vào hữu; chỉ lăng xăng trong hai thiên chấp hữu vô này mà thôi.

Tuyết Đậu nói, “Gương sáng bỗng lên đài, xấu đẹp lập tức phân.” Cái này chưa từng bao giờ động, chỉ lặng yên như gương sáng trên đài, vạn tượng không tránh được phản ánh trên ấy. Ngoại đạo nói, “Thế Tôn đại từ đại bi khai mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào (đạo).” Thử nói xem chỗ nào là chỗ vào của ngoại đạo? Đến chỗ này rồi các ông cần phải mời người tự tham tự cứu, tự ngộ tự tri mới được. Lúc ấy mới ở khắp mọi nơi dù là đi đứng hay nằm ngồi không hỏi cao thấp lúc nào cũng hiện thành, chẳng di dịch chút tơ hào. Vừa toan so đo lý luận ắt bị bế tắc đến chết người, và không còn chỗ vào nữa.

Phần cuối tụng ”Thế Tôn đại từ đại bi khai mở mây mờ cho tôi, khiến tôi có được chỗ vào.” Thầy ta lập tức phân xấu đẹp. “Xấu đẹp phân hề mây đen mở, cửa từ ở đâu sinh trần ai?” Cả trời đất này là cửa nẻo đại từ đại bi của đức Thế Tôn. Nếu như các ông thấu được chẳng còn đáng để nắm giữ. Đây cũng là cửa nẻo để ngộ. Há không biết rằng đức Thế Tôn tư duy việc này trong hai mươi mốt ngày. “Ta không nên thuyết Pháp, mau nhập niết bàn ngay.”

“Nghĩ ngựa tốt thấy bóng roi, thiên lý truy phong gọi về được. ”Ngựa truy phong” vừa thấy bóng roi là đã vượt ngàn dặm, gọi về là quay về ngay. Tuyết Đậu có ý tán thưởng nói rằng, “ Nếu như tìm được nhựa giống , thì chỉ cần đẩy một cái, nó đã tự xoay chuyển; vừa gọi nó đã quay về. Gọi về được, bung tay ba lần.” Thử nói xem, đây là chấm phá hay là rải cát?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15590)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 15030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14868)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13283)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14455)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20223)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18443)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30766)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12425)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15526)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13780)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13954)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13551)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14485)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13729)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16735)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15392)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31253)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18841)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 15021)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14615)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14599)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13813)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19701)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14456)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14527)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14734)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14777)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17936)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13589)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13714)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14970)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14179)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16448)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15352)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13506)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13183)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13283)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13006)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14101)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14728)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14243)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14638)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13024)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13814)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13281)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13769)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14708)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14778)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13299)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12855)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13757)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13696)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13347)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13908)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13715)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12617)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14846)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12884)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12467)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant