Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Ba Mươi Bảy: Tam Giới Vô Pháp Của Bản Sơn

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16112)
Tắc thứ Ba Mươi Bảy: Tam Giới Vô Pháp Của Bản Sơn

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 4

TẮC THỨ BA MUƠI BẢY

TAM GIỚI VÔ PHÁP CỦA BÀN SƠN

 

THÙY: Cơ biến như điện, tầm tư phí sức. Sấm sét trên không, bịt tai vô ích. Trên đầu óc phất cờ đỏ, phía sau tai múa song kiếm. Nếu không phải mắt biện tay rờ,làm sao có thể nắm được? Có một số người cúi đầu tư lương, dùng ý căn mà ức đạc. Đâu có biết rằng trước đầu mình thấy quỉ vô số. Thử nói xem, không rơi vào ý căn, không ôm giữ đắc thất, hốt nhiên có người nêu lên như thế để giúp các ông giác ngộ, các ông phải đối đáp như thế nào? Thử nêu lên xem.

CỬ: Bàn Sơn[13] dậy rằng, “tam giới vô pháp, hà xứ cầu tâm?”[14]

BÌNH: Bàn Sơn Bảo Tích Hòa Thượng người U Châu thuộc miền bắc vốn là bậc tôn túc trong dòng của Mã Tổ.Sau đó có đào tạo ra được một người truyền thừaPhổ Hóa.Lúc sắp thiên hóa, nói với đồ chúng rằng, “ Có ai mô tả được chân tướng của ta chăng?” Đồ chúng người nào cũng lo vẽ chân dung trình lên cho Sư. Sư đều mắng cho. Phổ Hoá bước ra nói, “Đệ tử có thể mô tả được.” Bàn Sơn nói, “ Tại sao ông không trình lên cho lão tăng xem?” Phổ Hóa bèn lộn mèo rồi bước ra. Bàn Sơn nói, “ Gã này sau này thế nào cũng tiếp thiên hạ như thể điên khùng.”

Một hôm Bàn Sơn dạy chúng rằng, “Ba cõi không pháp, tìm tâm ở đâu? Tứ đại vốn không, Phật trụ nơi nào? Bắc đẩu bất động, tịch lặng không vết. Mặt mày đối diện, không còn gì khác.” Tuyết Đậu nêu hai câu lên rồi tụng, đúng là vàng ròng ngọc tinh. Há không nghe câu nói, “Chữa bệnh không nhờ thuốc lựa cho.” Tại sao sư núi tôi lại nói là vừa mở miệng đã đánh? Chỉ vì thầy ta mang gông biểu lộ lầm lẫn của mình.

Cổ nhân nói, “Nghe câu ngoài âm thanh, đừng tìm ở trong ý.” Song thử nói xem ý của cổ nhân là thế nào? Giống y như thể suối chảy kiếm múa điện chớp sao bay. Nếu các ông toan luận bàn tầm tư, thì dù cho có ngàn vị Phật xuất thế đi nữa, rốt cuộc cũng rờ rẫm chẳng ra. Nếu như các ông tham nhập được chỗ thâm sâu, thấu triệt được cốt tủy, thấy được tận đáy, thì Bàn Sơn hẳn đã một màn bại hoại. Nếu như các ông biết theo lời mà hiểu tông, xoay phải xoay trái, thì Bàn Sơn chỉ nắm được một mối mà thôi. Nếu như các ông vướng nước dính bùn, lăng xăng trong dòng thanh sắc, thì trong mộng cũng chẳng trông thấy được Bàn Sơn. Ngũ Tổ nói, “Thầu qua được bên kia thì mới có được phần giải thoát.”

Há không nghe Tam Tổ nói, “Chấp trước thì sẽ mất cân bằng và rơi vào đường tà. Buông thả tự nhiên, làm gì có khử trừ trong (bổn) thể?” Nếu như ở đây nói rằng vô Phật vô pháp, tức lạc vào hang ma. Cổ nhân gọi là hố sâu của giải thoát. Vốn là thiện nhân song lại chiếu ác quả. Cho nên mới có câu nói rằng kẻ vô vi vô sự vẫn còn bị trói buộc bằng xích vàng. Cần phải hiểu tận thâm sâu mới được. Nếu như nói được những cái vượt qua ngôn ngữ, làm được những cái vượt qua hành động , đó gọi là chỗ chuyển thân. Tam giới vô pháp, cầu tâm ở đâu? Nếu như toàn hiểu bằng kiến giải thiên chấp các ông hẳn sẽ chết dưới ngôn ngữ của Bàn Sơn. Chỗ thấy của Tuyết Đậu sâu xa hết sức, cho nên thầy ta mới tụng rằng:

TỤNG

Tam giới vô pháp,

Hà xứ cầu tâm?

Mây trắng là dù,

Suối chẩy là đàn.

Một khúc hai khúc không người hiểu,

Mưa tạnh hồ đêm nước thu sâu.

BÌNH: “Tam giới vô pháp, hà xứ cầu tâm?” Tuyết Đậu tụng giống như Hoa Nghiêm Cảnh Giới. Có người nói rằng Tuyết Đậu từ hư không mà xướng lên, song những người có mắt hé mở rốt cuộc không bao giờ hiểu như thế cả. Tuyết Đậu đến bên cạnh (Bàn Sơn) mà nói thêm hai câu rằng, “Mây trắng là dù, suối chẩy là đàn.” Lúc Tô Đông Pha gặp Chiêu Giác có làm bài tụng rằng, “Tiếng suối chính là lưỡi rộng dài, Mầu núi phải chăng Thanh Tịnh Thân? Đêm đến tám vạn bốn ngàn kế, Sau này làm sao nói cho người?”

Tuyết Đậu mượn suối chảy làm cái lưỡi dài, cho nên mới nói rằng, “Một khúc hai khúc không người hiểu.” Há không nghe Cửu Phong Xư Hòa Thượng nói, “ Có biết mệnh không? Suối chảy là mệnh, trạm tịch là thân. Ngàn sông nơi đây,là cảnh giới của Phổ Hiền. Suối chảy là đàn Một khúc hai khúc không hiểu. Khúc điệu này, phải là bậc tri âm mới lãnh hội nổi. Nếu như các ông không phải là người ấy, lắng tai nghe cũng vô ích mà thôi. Cổ nhân nói, “ Người điếc cũng hát được khúc Hồ[15], hay dở cao thấp chẳng nghe ra.” Vân Môn nói, “ Lúc công án được nêu lên mà các ông không lưu tâm, rồi các ông lại toan tư lương thì đến kiếp nào mới ngộ được?” Nêu lên là thế, lưu tâm là dụng. Trước khi (công án) được nêu lên, trước khi triệu trẫm được phân biện, mà các ông thấy đoục, thì có thể cắt đứt câu nói; Nếu như triệu trẫm vừa phân biện mà các ông đã thấy được ngay, thì các ông đạt được chiếu và dụng.Nếu như phải đợi triệu trẫm phân biện rồi mới hiểu được, thì các ông bị rơi vào ý căn.

Tuyết Đậu mới từ bi làm sao, cho nên mới nói với các ông rằng,” Mưa tạnh hồ đêm nước thu sâu.” Song các ông phải đưa mắt mà nhìn cho nhanh mới được, nếu như trì nghi thì không thể nào thấy được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15593)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 15033)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14870)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13293)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20232)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18450)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30773)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12434)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15529)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13782)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13958)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13554)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14492)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13744)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16744)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15400)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31269)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18852)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 15027)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14626)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14604)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13820)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19715)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14474)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14548)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14748)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14797)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17963)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13607)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13736)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14985)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14194)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16474)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15370)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13542)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13191)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13300)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13018)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14119)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14740)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14256)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14646)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13035)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13821)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13281)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13773)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14710)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14801)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13323)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12867)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13778)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13712)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13360)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13913)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13719)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12640)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14862)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12892)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12491)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant