Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Hai Mươi Bốn: Qui Sơn Và Lưu Thiết Ma

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16070)
Tắc thứ Hai Mươi Bốn: Qui Sơn Và Lưu Thiết Ma

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 3

TẮC THỨ HAI MƯƠI BỐN

QUI SƠN VÀ LƯU THIẾT MA

 

THÙY: Đứng trên đỉnh cao vút, ngoại ma không thấy được. Đi dưới đáy biển sâu, mắt Phật nhìn không ra. Dù cho là có mắt như sao rơi, có trí như điện chớp, cũng khó mà tránh được khỏi giống con rùa thiếng kéo đuôi. Đến chỗ này rồi phải làm gì mới khế hợp. Xin nêu lên thử xem.

CỪ: Lưu thiết Ma đến gặp Qui Sơn. Qui Sơn nói, “Con bò cái kia đến đó hả!” Lưu Thiết Ma nói, “Ngày mai trên Đài Sơn[10] có trai hội lớn, hòa thượng có đi không?” Qui Sơn nằm xuống, Lưu Thiết Ma bèn bỏ đi.

BÌNH: Ni lưu Thiết Ma như đá lửa như điện chớp. Vừa toan nghị luận là (các ông lập tức) tang thân thất mạng ngay. Trong đạo Thiền một khi đã đến chỗ khẩn yếu, đâu còn có nhiều việc gì nữa? Các tay chuyên gia gặp nhau, giống y như thể thấy sừng bên kia tường biết ngay là có bò, thấy khói bên kia núi biết ngay có lửa. Khi đẩy thì họ động, khi dồn thì họ xoay quanh.

Qui Sơn nói, “Trăm năm sau, ta sẽ xuống núi làm con trâu trong nhà vị thí chủ kia. Bên hông trái sẽ có viết năm chữ, “ Qui Sơn tăng, tôi đây.” Đúng vào lúc ấy, gọi là Qui Sơn tăng mới đúng hay gọi là trâu mới đúng?”Người bây giờ mà bị hỏi như thế, lập tức lúng túng không biết phải làm thế nào.

Lưu Thiết Ma tham Thiền đã lâu, cơ trí sắc bén, cho nên người ta mới đặc biệt hiệu cho là Lưu Thiết Ma. Lưu Thiết Ma dựng một thảo am cách nơi của qui Sơn mười dặm. Một hôm đến thăm Qui Sơn. Qui Sơn thấy Ni đến bèn hỏi, “Con bò cái kia đến đó hả.” Lưu Thiết Ma nói, “Ngày mai trên Đài Sơn có trai hội lớn,hòa thượng có đi không?” Qui Sơn nằm xuống. Lưu Thiết Ma bèn bỏ đi. Các ông thử nhìn xem, họ giống như thể đối thoại, song đã không phải là Thiền tại cũng chẳng phải là đạo. có thể gọi là vô sự được chăng?

Qui Sơn cách xa Đài Sơn có đến mấy ngàn dặm. Lưu Thiết Ma tại sao lại muốn Qui Sơn đi dự trai hội? Thử nói xem ý của Ni là gì? Bà lão này hiểu lối nói chuyện của Qui Sơn, tơ đến sợi đi, một buông một nắm, hỗ tương xướng họa như thể hai tấm gương phản chiếu nhau, mà không có hình ảnh gì để quán cả. tiếp nhau từng phương tiện, phù hợp nhau từng câu nói.

Người thời nay bị thúc ba lần mà cũng chẳng quay đầu, song bà lão này chẳng hề bị lừa chút nào. Đây tuyệt nhiên không phải là thiên kiến nằm trong sự thật công ước, giống như gương sáng trên khung, ngọc sáng trong tay, Hồ đến Hồ hiện, Hán đến Hán hiện. Bởi vì Lưu Thiết Ma biết rằng có sự việc hướng thượng trong ấy, cho nên bà ta mới hành sự như vậy,

Hiện giờ chỉ nên hiểu đó là vô sự. Ngũ Tổ Pháp Diễn hòa thượng nói, “Đừng coi hữu sự là vô sự, hữu sự thường thường do nơi vô sự mà nẩy sinh.” Nếu như các ông tham thấu được, các ông sẽ thấy rằng họ nói chuyện với nhau như thể những người bình thường vậy. Đa số người ta thường bị trở ngại bởi ngôn ngữ, cho nên mới không hiểu. Chỉ có kẻ tri âm mới có thể hiểu họ được.

Giống như Càn Phong dạy chúng rằng, “Nêu lên thì không được nêu lên hai, buông bỏ một cái là các ông sẽ rơi vào cái thứ hai”. Vân Môn bước ra khỏi đồ chúng nói, “ Hôm qua có một ông tăng từ Thiên Thai đến song lại đi về Nam Nhạc.” Càn Phong nói, “Điển tòa hôm nay không được tụ tập tăng chúng nữa.”

Quan sát xem Qui Sơn và Lưu Thiết Ma, lúc buông thì cùng buông, lúc nắm thì cùng nắm. Trong tông môn của Qui Ngưỡng đây gọi là phương pháp “cảnh trí”. Gió thổi bụi bay, tất thấy được đầu mối. Đây cũng gọi là “cách thân cú”. Có nghĩa là ý thông mà ngôn ngữ bị gián cách. Đến chỗ này rồi thì các ông phải biết xoay trở phải trái, như thế thì mới là tay chuyên gia.

TỤNG

Từng cưỡi ngựa sắt vào thành cao,

Chiếu xuống truyền rằng sáu nước yên.

Vẫn cầm roi vàng hỏi khách về,

Đêm sâu ai cùng đi lối vua?

BÌNH: Tụng của Tuyết Đậu các nơi đều cho là cực tắc. Trong một năm bài tụng ,bài này là đầy đủ luận lý nhất, và cũng là bài có thể cách phân minh tuyệt diệu nhất. “Từng cưỡi ngựa sắt vào thành cao” là để tụng việc Lưu Thiết Ma đến. “ Chiều xuống truyền rằng sáu nước yên,” là để tụng việc Qui Sơn hỏi. “Vẫn cầm roi vàng hỏi khách về”, là để tụng lời Lưu Tuyết Ma nói rằng, “Ngày mai ở Đài Sơn có trai hội lớn, hòa thượng có đi dự không?” “Đêm sâu ai cũng đi lối vua,” là để tụng việc Qui Sơn nằm xuống, Lưu Tuyết Ma bỏ đi.

Tuyết Đậu có cái tài này, chỗ cấp thiết thì tụng cấp thiết, chỗ hòa hoãn thì tụng hòa hoãn. Phong Huyệt cũng đã từng bình (công án này), và cũng cùng một ý với Tuyết Đậu. Bài tụng này được người các nơi ca ngợi: “Đứng trên đỉnh núi cao, ngoại ma không thấy được. Đi dưới đáy biển sâu, mắt Phật nhìn không ra.”

Nhìn họ xem, một người nằm xuống một người liền bỏ đi. Nếu vẫn cứ loanh quanh thì chẳng bao giờ tìm ra lối. Ý của bài tụng của Tuyết Đậu thật là tuyệt. Đúng là đã từng cưỡi ngựa sắt vào thánh cao. Nếu như thầy ta không có chỗ chứng đắc ( giống như họ) làm sao thầy ta có thể như thế được? Thử nói xem, thầy ta đắc được ý gì? Há không nghe chuyện có ông tăng hỏi Phong Huyệt,“ Qui Sơn nói, “Con bò cái kia đến đó hả?” có nghĩa là gì?” Phong Huyệt nói, “Trên từng mây trắng rồng vàng nhảy.” Ông tăng hỏi, “Lúc Lưu Thiết Ma nói, “Ngày mai trên Đài Sơn có trai hội lớn, hòa thượng có đi dự không?” có nghĩa là gì?” Phong Huyệt nói, “Giữa lòng sóng biếc ngọc thỏ kinh” Ông tăng hỏi, “Lúc Qui Sơn nằm xuống có nghĩa là gì?” Phong Huyệt nói, “ Già nua lụ khụ ngày vô sự, nằm yên ngon giấc với núi xanh.” Ý này cũng giống với ý của Tuyết Đậu.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15563)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 14998)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14845)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13262)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14442)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20200)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18422)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30752)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12417)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15518)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13755)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13928)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13529)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14448)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13721)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16729)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15383)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31226)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18819)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 14991)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14587)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14574)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13786)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19695)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14434)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14518)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14715)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14759)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17913)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13564)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13688)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14944)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14154)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16422)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15321)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13486)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13147)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13265)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12987)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14082)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14720)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14217)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14610)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13001)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13808)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13260)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13742)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14685)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14756)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13275)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12832)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13737)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13672)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13324)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13885)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13690)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12590)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14812)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12874)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12445)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant