Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

1. Lập nghi chúc Thánh

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13373)
1. Lập nghi chúc Thánh

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển nhất
Bách Trượng Tòng Lâm Thanh Quy Chứng Nghĩa 
Đời Đường, Sa môn Hoài Hải ở núi Bách Trượng biên tập tại Hồng Châu.
Chùa Chân Tịch Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa tại Cổ Hàng. 
Đời Thanh, trụ trì Chùa Giới Châu là Diệu Vĩnh hiệu duyệt ở Việt Thành.

Mục Lục 
1 Lập nghi chúc Thánh.
2 Ngày lễ chánh, sáng sớm chúc:
3 Cử hành ngày chúc thánh hoàn mãn 
4 Nghi thức nhận sắc chỉ vua ban

1. Chương một: 
Chúc Diên – Chúc Quốc Vương

Lời thuật nói rằng, con người quí ở cái đạo sáng nên từ xưa các bậc Thánh đế tôn sùng lời dạy của các Thánh nhân Tây phương; chẳng lấy cái lễ thường đối đãi ta mà tôn thờ cái đạo các Ngài. Đã được triều đình ưu đãi đến thế, lại đặc miễn thuế má sưu dịch, làm cho dân an cưhết lòng với đạo. Ân vua rộng lớn không thể dùng lời tả hết được, làm tăng ắt phải ngộ Phật tánh, nghiêm giữ giới luật. Nhiều người chẳng có ý cậy nhờ vào Triều đình thịnh vượng mà lại sớm tối chúc diên, mong ân Phật từ bi gia hộ, lòng trời soi chiếu cho quân vương chăn dân lấy đức lành cảm hóa. Xây đời lấy nhân làm ranh vực. Ngõ hầu ngưỡng vọng báo đền ân trong muôn một nên thấy những việc hằng ngày, kính cẩn ghi chép ra để mà duy trì các phép tắc vậy.
 
1.1 Lập nghi chúc Thánh.

Vâng mệnh thiết các lễ chư Thánh 

Kinh Kim Cang Vô Lượng Thọ có ghi rằng, việc sở trường sở đoản tùy theo, tăng không ngoa ngụy dối gian chứng tỏ lòng cung kính. Trước tiên việc lập đàn có 3 mục: phòng khách chuẩn bị giấy mực các thứ, phòng thư ký, vị tri khách (tiếp khách - tiếp tân) đến tiếp xúc lễ một lễ bạch rằng: 

- Thưa… ngày đó, tháng… năm đó có lễ thánh tiết, xin cảm phiền Đại Đức… cho vài lời sơ lược. (Nếu thư ký không có mặt, Thầy Phó thay thế, trong trường hợp cả hai đều vắng, nên dùng phần sau đây đáp sơ). Thư ký đúng phép tắc bạch xong, đều giản đơn đem trình cho vị Trụ trì xem qua rồi đích thân tới phòng khách thưa thỉnh: lễ một lạy, đáp lời thỉnh cầu… Thầy tri khách dùng giấy vàng viết chữ và các chi tiết liên hệ vào tờ sớ. Lập đàn trước hết là phòng khách, mời vị Duy Na (thủ chuông) cùng chư tăng tụng kinh cầu nguyện. Kế đến linh động sắp xếp trình cho Trụ Trì xem xét xong; mời Trụ Trì lên Phật điện hướng dẫn chúng tụng kinh chúc Thánh. Nên sửa soạn chánh điện, quét dọn sạch sẽ hẳn thiết lập Kim Cang Vô Lượng Thọ đạo tràng, thiết trí cho thật trang nghiêm, treo các liễn trướng… ghi rõ ngày… tháng… năm… cung chúc thánh đản vạn thọ hiệp cùng đại chúng bổn viện vân tập Phật điện, tụng các thần chú, niệm danh hiệu Phật Dược Sư, phục nguyện... Phật nhựt soi tỏ, Thánh thọ vô ngần v.v...

Mời cho được 20 vị tăng tụng kinh, tối thiểu cũng phải 10 vị mỗi ngày. Chương trình gồm có thuyết pháp, tọa thiền hay niệm Phật, cúng ngọ, bái sám, tụng kinh… tùy nghi cho thích hợp.

Có thể đọc lòng sớ như sau:

Sớ rằng: cảnh vận rộng khai, thánh nhân tạo dựng mà có vạn vật; hồng ân lợi nhuần một nhân vật nhưng triệu người được nhờ; thọ mạng vô cùng, trời đất khó đo lường được chỗ cao dày, chiếu soi sáng tỏ. Mặt trời mặt trăng khó dụ ánh quang rực rỡ; vốn biết rằng có tán dương cũng khó tận mà muốn báo đáp cũng vô cùng. Chỉ bày hun đúc người tài đức biết trọng 4 ân hết lòng trung tín, tâm thành kính chúc. Nay tại Châu Diêm Phù Đề trong bốn châu …quốc, …. tỉnh, …. quận… phố khu…, … đường, chùa (tên chùa). Hôm nay là ngày… tháng… năm… nhân dịp lễ Khánh tiết, bổn tự thiết lễ nghi diên hoàn bị, kiền thỉnh đại đức chúng tăng vân tập bảo điện, lập Kim Cang Vô Lượng Thọ đạo tràng. Vài ba ngày nên thỉnh tăng luân phiên tụng kinh Hoa Nghiêm (Kinh Đại Phật đảnh vạn hạnh Thủ Lăng Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Phương quảng Viên Giác tu đa la liễu nghĩa, Kinh Kim Cang Bát Nhã ba la mật, Kinh Nhân Vương hộ quốc bát nhã, Từ Bi đạo tràng Sám Pháp, Lương Hoàng Sám pháp…) trong mỗi Kinh tụng thêm các bài thần chú mật ngôn, tụng danh hiệu Phật, kỳ cầu hồng ân, phụng vì khánh chúc: trên hoàng thượng thánh thọ vạn tuế vạn vạn tuế.

Lại nguyện: sao Xu cao chiếu sáng lòe, long tượng hòa hài, lưới trời lồng lộng; núi sông bao dung lượng thánh hàm tàng 3000 hoa tạng thế giới, lợi ích thấm nhuần bất tận; ngưỡng cầu: thần long che chở, sao tinh chiếu dọi thiên hạ thái bình, 4 mùa an ổn, quốc dân hòa lạc mà đất nước cường thịnh

Phật nhật sáng soi

Long thiên chiêu cảm

Xin chí thành dâng sớ tỏ bày.

Ngày…tháng…năm…

Trú trì: Sa môn (tên) cung đọc xong.

(Nếu có viên chức chính quyền dự, mời chủ trì mỗi vị nên biên tên họ đầy đủ. Sớ này ghi chữ rõ ràng, ở đầu tờ sớ thêm vào 4 chữ lớn: Vạn Thọ Vô Cương. Cũng như đọc sớ phải nhằm ngày lễ chánh. Đàn tràng cúng trước giờ ngọđại chúng cùng tụng kinh).

Đọc: Nam mô vô lượng thọ Phật (xong rồi đốt sớ).

Thọ mạng vô lường

- Xe vàng và xe pháp cùng chuyển bánh, phước vượt khỏi 3 kỳ 

- Thuấn nhựt và Phật nhựt cùng sáng lạn, thọ mạng kéo dài ức kiếp.

Khắp nơi đồng mừng 

- Một nhân vật tự tại như mây kéo qua mặt trời, sao vằng vặc rạng chiếu cùng biển đất

Thọ mạng vô lường như rồng ôm bản đồ, phượng xây lầu gác, quốc gia bền vững

Ngưỡng xem Bắc Cực

- Tám tờ biểu dâng vua, đồng quay về giáo hóa

Muôn dân triều cống, người người đồng hưởng an lạc thái bình.

(Những câu trên viết treo nơi hàng ba trước chánh điện). 

- Chứng nghĩa ghi rằng: thánh tiết hay còn gọi là vạn thọ tiết hoặc xưng là thiên thọ. Vì đây là ngày (giai tiết) của Thánh nhân đản sanh. Sách Trung Phong ghi rằng, chỉ trồng cây sanh giữa đất trời mà không chăm tưới bón, chỉ giòng họ Thích ta mới được thấm đến như thế! Sao không lấy đó làm bằng. Cô lập, hư, mềm, yếu mà không tự đứng được. Nói cô lậpmột mình xa cách người thân, không kinh doanh như người đời, hư là sống nhờ đàn việt không cày sâu cuốc bẩm. Nói mềm là làm cho tâm lắng chìm vắng lặng, giữ phép tắc nội quy, nói yếu là giữ gìn chân tánh, không cạnh tranh hơn thiệt. Mình chưa là thánh nhân nên đừng quên lời Phật dạy: cong rủ giữ vẽ ngoài thì vườn tăng đủ tươi. Há dám tự xưng tăng mà không lấn đoạt nơi tay người khác ư? Do vậy, chúng ta an ổn nhàn lạc, một giờ, một khắc hàm dung ân đức bậc thánh. Dù nhờ trời che đất chở cũng không thí dụ hết được. Phải quyết lòng cầu pháp, trọn đời buộc ràng với đạo, cho chí tan thân mất mạng cũng không đủ đền đáp một phần trong muôn một. Đâu lại thong dong biếng lười sa đọa, để lần lửa qua ngày mà đắm chìm trong lạc dục ư? Cho nên, ngày lễ thánh hợp như pháp thiết lễ cúng bái, tụng kinh để báo đáp ân quốc vương.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11833)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11012)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11950)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10630)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17831)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11601)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9832)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10084)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12250)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15222)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11095)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14187)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11960)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15152)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11858)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12302)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11069)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11971)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10491)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12442)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13020)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14652)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12534)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16375)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19412)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12994)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12545)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12147)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11693)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10780)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11849)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11723)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11490)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12624)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14365)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15516)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13461)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12751)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17852)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11038)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12067)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12911)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10202)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12072)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15153)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12093)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11354)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14113)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19496)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14036)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24375)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10573)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant