Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

4. Lễ Kỵ Ngài Pháp Sư Hiền Thủ

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12342)
4. Lễ Kỵ Ngài Pháp Sư Hiền Thủ

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển Bốn
Bách Trượng Hoài Hải biên soạn tại núi Bách Trượng 
vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, chùa Chân Tịch tại Hàng Châu.
Trụ Trì chùa Giới Châu Diệu Vĩnh duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương bốn: Ân Đức Tổ Sư

1.4 Lễ Kỵ Ngài Pháp Sư Hiền Thủ

Ngày 14 tháng 11 lễ kỵ Tông chủ Hiền Thủ, là Quốc Nhất, là tạng Tổ kỵ. Nghi thức giống như cúng Tổ Đạt Ma: Nam Mô Hiền Thủ Tông Chủ quốc nhất pháp sư (3 lần). Tiếp theo tụng Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, phẩm Như Lai xuất hiện ra đời:

Này Phật tử, Đại Bồ Tát phải làm sao để biết Như Lai Chánh Đẳng giác nhập Niết Bàn? Này Phật tử, đại Bồ Tát muốn biết Như Lai nhập đại niết bàn cần phải biết rõ tự tánh căn bổn chân thật NHƯ là Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như thật tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như pháp giới Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như hư không Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như pháp tánh Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như ly dục Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như vô tướng tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như ngã tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như hết thảy pháp tánh tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Như chân như tế Niết Bàn, Như Lai Niết Bàn cũng thế. Tại sao? Vì Niết Bàn không sanh không xuất. Nếu pháp không sanh, không xuất thì không có diệt.

Này Phật tử, Như Lai không vì Bồ Tát mà nói Niết Bàn rốt ráo của Như Lai cũng không vì sự thị hiện kia mà nói Niết Bàn. Tại sao? Vì muốn làm chúng sanh thấy tất cả thường trụ của Như Lai về trước, trong một niệm thấy chư Phật quá khứ, vị lai sắc tướng tròn đầy như hiện tại; cũng không khởi hai chẳng nhị tưởng. Tại sao? Vì đại Bồ Tát xa lìa hết thảy mọi chấp tướng. Này Phật tử, chư Phật Như Lai vì làm cho chúng sanh sanh tâm hân hoanxuất hiện ra đời, muốn làm cho chúng sanh có lòng luyến mộ mà hiện Niết Bàn nhưng thật Phật không có ra đời cũng không Niết Bàn. Tại sao? Vì Phật thường trụ cảnh giới thanh tịnh, tùy theo tâm chúng sanhthị hiện Niết Bàn.

Này Phật tử, ví như mặt trời mọc chiếu sáng khắp thế gian, vào nơi tất cả đồ chứa nước sạch mà không hiện bóng. Này Phật tử, ý ông nghĩ sao, bóng mặt trời không hiện là mặt trời có lỗi không? 

Đáp: Không có lỗi. Chỉ do đồ chứa hư (bể) không phải lỗi ở mặt trời. Này Phật tử, trí Như Lai cũng như thế, chiếu sáng khắp pháp giới không có trước sau. Tất cả chúng sanh tâm lắng thanh tịnh, Phật hiện thân ngay; tâm tánh thường lóng trong luôn thấy Phật hiện. Nếu tâm dơ vật hỏng không thấy Phật. 

Này Phật tử, nếu có chúng sanh phải dùng Niết Bàn mà độ đó Phật hiện Niết Bàn, nhưng thật Như Lai không sanh không diệt, không có diệt độ. Này Phật tử, thí dụ như lửa cháy lớn khắp hết thế gian, ai cũng phải lo chữa cháy hoặc có nơi một lúc, lửa liền tiêu hết. Ý Ông nghĩ thế nào, tất cả lửa thế gian đều dứt hết chăng?

Đáp: Không thể dứt hết. Này Phật tử, Như lai hiện Chánh Đẳng giác cũng lại như thế, trong các thế giới làm các Phật sự hoặc nơi một thế giới làm việc xong mới thị hiện Niết Bàn; đâu phải các thế giới chư Phật Như Lai đều diệt độ hết cả đâu! Này Phật tử, đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác, nhập đại Niết Bàn. Lại này Phật tử, ví như huyễn sư khéo làm trò huyễn thuật, vì lực huyễn thuật trong hết thảy mọi quốc độ ở 3000 đại thiên thế giới nào thành ấp, xóm làng hiện thân huyễn. Vì duy trì lực huyễn trải qua kiếp số mà tồn tại, nhưng nơi các xứ khác việc huyễn đã xong, huyễn sư ẩn thân không hiện. 

Này Phật tử, ý Ông nghĩ thế nào, đại huyễn sư kia đâu phải ở một nơi ẩn thân không hiện mà làm cho tất cả mọi nơi đều diệt hết sao? 

Đáp: Không phải như vậy. 

Này Phật tử, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác cũng lại như thế. Khéo biết vô số trí phương tiện bằng mọi huyễn thuật trong các cõi mà hiện thân khắp nơi; giữ cho luôn tồn tại đến vị lai tế hoặc ở một nơi, tùy theo tâm chúng sanh mà làm việc xong lại thị hiện Niết Bàn. Đâu có thể lấy một nơi nhập Niết Bàn mà cho là tất cả đều diệt độ. Này Phật tử, đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác, đại Niết Bàn. Lại này Phật tử, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác lúc hiện Niết Bàn nhập bất động tam muội, khi vào tam muội này trong mỗi mỗi thân đều phóng ra vô lượng trăm nghìn ức vô số ánh sáng lớn; mỗi ánh sáng đó xuất vô số lượng hoa sen. Mỗi hoa có vô số nhụy hoa báu, mỗi nhụy hoa có một tòa sư tử. Trên mỗi tòa sư tử đều có Phật ngồi kiết già thiền định, các đức Phật phân thân vô số hợp với số chúng sanh đều đầy đủ công đức trang nghiêm. Do bổn nguyện lực phát sanh, nếu có chúng sanh thiện căn thuần thục thấy được thân Phật đều được Phật giáo hóa. Song thân Phật kia ở trong ngằn mé đời vị lai hoàn toàn an trụ tùy cơ hóa độ hết thảy chúng sanh chưa từng thôi nghỉ. Này Phật tử, thân Như lai không ở một phương sở nào, chẳng thật chẳng hư, chỉ vì bổn thệ nguyện chư Phật mới kham độ chúng sanh, bèn xuất thế. Đại Bồ Tát phải biết như thế, Như Lai hiện Chánh Đẳng giác đại Niết Bàn. Này Phật tử, Như Lai trụ trong vô số pháp giới, an ổn vô ngại cõi hư không, chân như pháp tánh không sanh không diệt. Và vì thật tế, vì chúng sanh tùy lúc thị hiện để duy trì bổn nguyện không có chấm dứt; không bỏ chúng sanh, cõi nước và các pháp.

Tiếp theo tụng chú biến thực, cam lồ, phổ cúng dường như nghi cúng Tổ Đạt Ma, chỉ thay đổi lời bạch:

Cung kính nghe rằng pháp sư, theo dấu Thiên Thai tôn xưng Hiền Thủ, là Tông chủ tông Hoa Nghiêm, thành một nhà giáo quán. Nhưng một tôn chỉ ở Kỳ Châu muốn ngộ Phật thừa, giảng pháp đại thừa vào đời Đường bọn tả đạo hồi tâm. Từ đó 10 tông thành lập, 5 phái thường còn làm kim chỉ nam của ngàn sau, làm thầy dạy pháp cho muôn đời… Nay gặp ngày húy nhựt Ngài xin phụng hiến hương hoa cúng dường kỷ niệm. Lại nguyện, đèn trí sáng soi mãi mãi, ấn Tổ rạng ngời, xin gia hộ cho người sau tiếp tục duy trì tông phong lâu dài

Bạch xong, đại chúng cử tán bài:

Lành thay Hiền Thủ

Mô phạm muôn đời

Bao năm lập nguyện truyền thừa

Chí cầu pháp mạch sâu

Trước thuật mãi truyền lưu

Chớ bàn chỗ thậm huyền

Nam Mô Hiền Thủ tông chủ Quốc Nhất pháp sư (3 lạy).

Chứng nghĩa ghi rằng: Tông Chủ húy là Pháp Tạng, tự Hiền Thủ, Vua phong là Ích hiệu Quốc Nhất, là Tổ thứ 3 tông Hoa NghiêmĐông Độ. Ngài họ Khương, người nước Khương Cư sanh ngày mồng 2 tháng 11 năm Trinh Quán thứ 17 đời Đường, cùng với ngài Thiên Thai Trí Giả trước sau gần 200 năm, chuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm có 1 phẩm là Hiền Thủ, lại là trong 10 vị Bồ Tát có một vị tên Hiền Thủ. Nên lấy 2 chữ Hiền Thủ đặt pháp tự; cũng như lấy chữ này thành lập tông. Cũng giống lập giáo quán tông Thiên Thai có chỗ đại đồng tiểu dị. Phần Kinh tụng ở trên, phẩm Như Lai xuất hiện chương Niết Bàn, lấy lời dạy chính của Phật thành lập tông, mà nay việc cúng giỗ thích nghi vậy. Tông Thiên Thai dùng Kinh Pháp Hoa phẩm Thọ Lượng cũng là ý này. Về sau ngày giỗ kỵ tụng Kinh phần nhiều tụng Tâm Kinh, chú vãng sanh hoặc tụng Kinh A Di Đà, nếu cúng trước linh của người thế tục. Như các bậc Tổ Sư cao tăng sớm đã ra khỏi 3 cõi đâu có như phàm phu mà cầu siêu độ ư? Cho nên đối với chư Tổ mỗi vị tùy theo tông pháitụng niệm cho thích hợp. Như Tổ Thiền Đạt Ma ở trước tụng 108 câu Kinh Lăng Già, lấy tâm ấn thiền tông, không như 108 câu ở đây. Tổ Bách Trượng ở trước tụng phẩm Phạm Hạnh, Kinh Hoa Nghiêm lấy chỗ giống với Thanh Quy. Lại như Đạo Tuyên luật sư tụng bài kệ Kinh Phạm Võng; Liên Xã Tổ Huệ Viễn tụng chương Đại Thế Chí. Ngăn các môn phái không đặt lẫn lộn cho con cháu, dễ nắm rõ mỗi tông về tôn chỉ riêng mà sự linh hiển của chư Tổ cũng gia tăng theo sự yêu thích riêng. Ý nghĩa chung không đặt thẳng thừng, theo danh tham khảo thích hợp cơ nghi. Tuy mới bổ túc cho lớp sau, nhưng cúng chư Tổ cũng phải giữ nguyên kế tục như trước như mỗi phái đã có quy định.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11832)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11012)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11949)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10629)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17830)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11600)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9831)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10082)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12250)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15221)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11091)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14185)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11959)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15150)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11856)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12302)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11068)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11970)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10491)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12441)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13020)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14651)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12532)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16373)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19410)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12994)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12544)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12147)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11692)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10779)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11848)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11722)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11488)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12621)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14362)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15515)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13460)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12750)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17851)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11037)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12067)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12910)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10201)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12071)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15150)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12091)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11354)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14112)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19496)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14035)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24373)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10573)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant