Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

10. Phụ: Cúng Giỗ Cha Mẹ

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16372)
10. Phụ: Cúng Giỗ Cha Mẹ

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển Bốn
Bách Trượng Hoài Hải biên soạn tại núi Bách Trượng 
vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa, chùa Chân Tịch tại Hàng Châu.
Trụ Trì chùa Giới Châu Diệu Vĩnh duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương bốn: Ân Đức Tổ Sư

1.10 Phụ: Cúng Giỗ Cha Mẹ 

Cúng giỗ cha mẹ, nghi thức đơn giản, không giống nhau. Chỉ người thân không phải những quan chức. Thầy Trụ Trì dự định ngày, sai thị giả đi thông báo, thay thế cho thiệp mời nghi cúng. Nếu có tụng kinh, thị giả bạch Thầy Duy Na ở phòng khách cùng dán thông báo tại đây hay tại trai đường

Thông báo rằng: ngày mai (mấy) là lễ giỗ thân phụ Hòa Thượng đàn đầu hoặc thân mẫu (tùy theo đó đổi chữ thích hợp), tụng Kinh…, mời bao nhiêu vị Kinh sư nêu danh tánh như dưới đây:

…….

…….

…….

Vào thời Kinh tối tại chánh điện, Thầy Trụ Trì sai thị giả hầu bên trái Hòa Thượng Phương Trượng. Sắp xếp đầy đủ vật cúng như hương hoa, trà quả đặt trước bàn thờ linh. Khóa lễ xong, đại chúng trở lại trai đường. Vị Trụ Trì ra trước sơn môn đến bàn linh tỏ lời mời như sau:

Tôi là… ngày mai nhân ngày giỗ phụ (mẫu) thân của Hòa Thượng bổn sư. Vì thế bổn tự có thiết lễ cúng Phật, tụng kinh cầu siêu mong cho chân linh cụ ông (cụ bà) nhờ lực bất tư nghì của Phật, chư tôn Bồ Tát, Thánh hiền, long thiên hộ pháp chứng minh tiếp độ. Tôi là …, đây mời chân linh tới chùa ngày mai lúc 10g sáng để được cầu siêu độ.

Nên thỉnh 3 lần như thế, phải quán tưởng hình dung, tiếng nói của cha, hoặc mẹ, nương nhờ uy đức lời thỉnh mà đến. Nghĩ cha, mẹ đã đến chùa thực sự. Nghĩ họ, cùng theo về chùa, rồi đem đặt vào vị trí, xá 4 xá niệm hương, dâng trà. Nghĩ rằng cha mẹ đang ngồi đó rất hoan hỷ an lạc; lại xá 4 xá rồi lui.

Đêm đó, Thầy Trụ Trì tự lấy bồ đoàn trải ngồi trước bên dưới bàn thờ, trì niệm danh hiệu Địa Tạng Bồ Tát 10 ngàn lần. Sáng hôm sau, sau thời Kinh Lăng Nghiêm, Thầy Trụ Trì một mình tới trước bàn thờ đốt hương, cúng trà. Buổi trưa, mời đại chúng cúng ngọ, cúng linh. Nghi cúng như các phần trên, nhưng không cần phải quỳ cũng như không lạy mà chỉ xá. Thỉnh một thầy thuyết pháp, đợi thuyết pháp xong tụng hồi hướng. Duy Na xướng: đảnh lễ Tam Bảo xong, đảnh lễ Hòa Thượng xong lui về chỗ. Buổi tối, tụng kinh xong, phục nguyện, hồi hướng. Trong đó lời lẽ đại loại như sau:

Cúi mong Thích Tôn điều ngự, đấng đạo sư toàn giác hàm 3 tạng, Kinh văn, chữ vàng, bậc đại sĩ lục hòa, giám trông chứng minh tấc lòng thành, ngưỡng vọng oai thần gia hộ (tiếp nhập tục định cư tại….), phụng Phật tụng kinh tiến phụ (hoặc mẫu) hay tiến Tỳ Kheo (tên…) chuyên vì truy tiến hiển khảo (cha)… ở số… đường…vùng…quận…tỉnh… nhứt vị chân linh (nếu mẹ đổi lại là) hiển tỷ tánh danh, ở số… đường… vùng… quận… tỉnh…, hoặc cúng chung phụ mẫu truy tiến 2 người đều đọc tên cả hai. Hôm nay chí thành dâng hương, quy mệnh 2 bậc giáo chủ Di Đà, Thích Ca nơi Cực Lạc quốc, chư Phật, các bậc Thánh hiền tọa trên đài sen, xin cảm thông tình cảnh. Lại vì, hiển khảo hưởng thọ… tuổi, nguyên tạ thế ngày.. tháng… năm; hoặc cúng mẫu thân hoặc tiến cả 2 theo đó mà đọc cho đúng. Tha thiết nghĩ rằng; cha nghiêm (mẹ từ) đức trọng tợ non thái cao vòi vọi, ân dưỡng dục khôn dò dường như biển cả khó mong đáp đền. Bất hạnh thay sớm mất, con chưa được đền ân trong muôn một. Ngày tháng qua nhanh, bóng quang âm biền biệt. Hôm nay ngày… tháng… năm… nhân gặp tuần húy nhật, ngưỡng mong ân đấng đại giác, trên đền đức cù lao (khó nhọc); do vậy mời chư tôn đức tăng già tụng kinh… cầu siêu độ, lấy đây làm vân lộ đưa lối chân linh sớm thoát cảnh u đồ mà siêu sanh thoát hóa.

Lại nguyện: ở cõi trời người được tăng 5 phước, mãn ý tùy tâm, nếu chưa thoát ra các thú, cầu được lên 9 phẩm sen tùy thời an trú. Dâng sớ, cung thỉnh Tam Bảo chứng minh. Phật lịch 25… ngày... tháng… năm… Đệ tử Tỳ Kheo…

Chứng nghĩa ghi: Việc báo đáp ân đức dưỡng dục của cha mẹnghe lời nhắc nhở ân của người xuất gia, theo Kinh Đại Thừa Bổn Sanh Tâm Địa Quán ghi: Phật dạy 4 ân mà ân cha mẹđứng đầu. Lương Hoàng Sám pháp ghi: kế lại nên nghĩ tưởng đến ân dưỡng dục của cha mẹ, bế ẳm, cho bú mớm, ái trọng tình thâm, thà mình chịu nguy hiểm để cho con an ổn. Phật dạy: ân trong thiên hạ không gì hơn ân cha mẹ, luận người bỏ tục xuất gia, chưa thể đắc đạo chỉ cần việc học hành, làm thiện chớ bỏ, tích đức không ngừng, ắt cảm được ân đức khó nhọc. Lại nói rằng, trong đó có ân cha mẹ, kẻ mồ côi từ nhỏ khó thể gặp lại, tưởng không lo lắng sao! Chưa đắc thần thông thiên nhãn không biết được cha mẹ xả báo thần thức đi về đâu, sanh ở chốn nào? Chỉ nên lo tạo phước để đền đáp thâm ân, làm thiện không ngừng, công thành ắt đạt được. Kinh dạy rằng, vì người mất mà tạo phước như tặng tiền người đi xa; nếu sanh cõi trời, người công đức càng tăng thêm, như gặp 3 đường ác hoặc bị tám nạn[6] vĩnh viễn lìa được các sự khổ. Nếu người đủ tín tâm chân chánh học chánh pháp làm cho 7 đời cha mẹ siêu ngộ, bà con quyến thuộc nhiều đời lo sợ đều dứt trừ và được giải thoát. Là mẫu người trí nên thành tâm chí hiếu hết lòng báo ân. Sự truy tiến cúng hương linh nên vâng lời Phật dạy. 

Sách Vân Thê Sùng Hành Lục ghi: Lương Pháp Vân người Dương Tiện, xuất gia năm lên 7 tuổi là đệ tử Bảo Lượng pháp sư Chùa Trang Nghiêm; Cấu Lãng Anh Tú ở chùa Diệu Âm giảng 2 Kinh Pháp Hoa, Duy Ma. Học giả qui tụ lại có người tên Thành Hiếu ham sắc khiến cho mẹ lo lắng, đến đổi thân gầy gò quá đổi, qua nhiều ngày không ăn uống. Lượng pháp sư nói rằng: Thánh nhân dạy lễ, bậc hiền cúi trông không để thất thố sai sót. Vã ngoài tánh bất diệt còn phát xuất từ Nho giáo huống nữa Phật có lời chí thiết: muốn báo ân sanh thành, gần thời phụng dưỡng chăm sóc đúng nghi cách, xa khuyên cha mẹ phát tâm Bồ Đề để hướng dẫn thần thức nên sớm nghĩ việc xa. Giả sử gặp việc đến làm sao trở tay cho kịp! Đang trong lúc còn sanh tiền, gần gũi chia ngọt xẻ bùi, hầu hạ cháo cơm. Ngài Liên Trì ca tụng: mẹ Tăng Tử chết, cơm cháo không vào miệng trong 7 ngày là việc cư tang của Vân Công, dù sao với Tăng Tử ai làm sao hơn chứ?

Tục ngữ có câu: Thích Tử từ bỏ đấng thân đâu có như vậy sao? Lại nữa, đời Hậu Chu Đạo Không ở Trường An mà trọng bao tử hương lý, tức kẻ có thế lực địa phương (phép vua thua lệ làng). Đường Tôn Thất xuất gia năm lên 7 tuổi, năm 19 tuổi may đỗ đạt được kỳ thi ở Trường An; lại gặp thời binh biến, phải cõng mẹ vào Hoa Sơn dừng lại tại một hang núi lánh nạn. Lúc bấy giờ lúa gạo, củi nước đều quí hiếm chẳng kiếm ra gạo ăn, ông chỉ đi xin ăn nuôi mẹ. Mẹ hỏi: “Con đã ăn gì chưa?” Vì sợ mẹ động lòng lo nên đáp là đã ăn rồi. Mẹ nói: “Cha con chết trận ở Hoặc Sơn (Nam Nhạc – Hành Sơn), con có thể tới đó tìm lấy cốt đem về chôn cất được không?” Thất vâng lời mẹ đi Hoặc Sơn thu nhặt hài cốt. Qua nhiều ngày đêm trì tụng kinh chú chí thành những mong đạt mục đích. Người xưa có tâm thành mà cảm, chích máu đổ xuống đống xương, mong cho trong đống xương ấy cái nào cục cựa là đúng hài cốt cha mình. Nhất tâm chuyên chú mắt không tạm rời mà chỉ chăm chăm nhìn đống xương. Qua nhiều ngày như vậy, có một hài cốt từ trong đống xương nhô ra, lay động. Thất kiệt sức một hồi rồi tỉnh lại, nhặt cốt đựng trong bình lớn mang về gặp mẹ. Đêm đó, bà mẹ mộng thấy chồng về, sáng hôm sau quả nhiên hài cốt đã về tới nhà. Con người do lòng hiếu mà cảm được như thế! Người sau dạy đạo, luận kinh phần nhiều y cứ gốc xưa lấy cội nguồn làm trọng. Việc này Ngài Liên Trì có 2 câu thơ tán thán rằng:

Nhịn ăn nuôi đói mẹ hiền

Tụng Kinh cảm động phăng tìm cốt cha!

Có thể nói đại hiếu gồm việc còn mất đấy mà lòng chí thành đã vượt cả cổ kim vậy. Than ôi! lạ thay và sau đây là câu chuyện Tăng Đạo Kỷ rất gần gũi mẹ, cung kính các bậc tôn túc, dệt vải may áo dâng mẹ. Hiếu của con nhà họ Thích đối bậc thân sinh khác xa với người đời. Sách truyện đăng tải đủ nêu những gương hiếu hạnh người xưa. Đời nay do bịnh, con nhà Thích không trọng người thân có 3 loại bất tài là cái tội của ông Tăng; hưởng của thập phương cúng mà không nhớ nghĩ tới ân cha mẹ. Ba loại bất tài đó là:

1- Ngồi tòa cao nhàn hạ mà không đoái tới cha mẹ lao khổ như người làm công

2- Cắt lìa núm ruột xuất gia mà nhận người khác làm cha mẹ nuôi

3- Sống đã như vậy, chết không cúng kiến thật là không còn lời thống thiết nào hơn.

Vong bản đến thế còn mong gì chấn hưng Phật Pháp chứ?
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11833)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11012)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11949)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10629)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17830)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11600)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9832)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10084)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12250)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15221)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11092)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14186)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11959)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15152)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11856)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12302)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11069)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11971)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10491)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12441)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13020)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14652)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12532)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16375)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19411)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12994)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12544)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12147)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11693)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10779)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11848)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11722)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11489)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12622)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14362)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15516)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13461)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12750)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17852)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11038)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12067)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12911)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10201)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12071)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15152)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12092)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11354)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14112)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19496)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14035)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24374)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10573)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant