Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Hiến cúng Vu Lan

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12909)
5. Hiến cúng Vu Lan

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 8
Tuổi đạo

Chương tám: Tuổi đạo

1.5 Hiến cúng Vu Lan

Đại chúng cùng tán bài Hội Vu Lan sau:

Vừa khai lễ hội cúng Vu Lan

Thỉnh Tam Bảo thân đến đàn tràng

Xin an tọa trên vòm đài sen

Ngưỡng mong thương xót chứng trai diên.

Nam mô Mỹ hương trai Bồ Tát ma ha tát (3 lần).

Duy Na đứng giữa niệm hương xong, lạy 3 lạy, qùy gối chấp tay bạch:

Cung kính nghe rằng:

Pháp thân vắng lặng,

Vốn không đến cũng không đi

Diệu trí viên dung,

Thật phi không phi sắc;

Rỗng rang dứt bặt mọi đối đãi

Biển giác khó lường, 

Che trùm khắp chúng sanh mê mờ,

Soi hào quang chiếu diệu.

Hôm nay chính là ngày chư Phật hoan hỷ.

Chúng Tăng tự tứ (giải hạ). Con vì bảy đời cha mẹ mà sắm sửa trăm vị thơm ngon, tuân theo gương hiếu người xưa, bắt chước Mục Kiền Liên, dâng cơm với mùi thơm nhẹ.

Cung kính lễ đấng Pháp Vương, mong rọi từ quang thọ nhận cúng dường.

Đứng dậy đọc tiếp: Ba thân Như Lai (chúng cùng hòa theo). Hiến cúng Vu Lan dâng lên Tam Bảo, hai tay nâng thủ lư bưng đưa lên bạch thỉnh:

Đấng Đại hùng xuất thế cũng chứng trai tại thành Xá VệChánh pháp lưu hành, cũng dự cúng dường nơi cung nội của Vua Ba Tư Nặc. Phật tùy cơhiện tướng độ khắp hết quần sanh. Hôm nay chúng con cung kính thiết lễ Vu Lan, tâm thành đảnh lễ tỏ bày hiến cúng.

Trên đài sen nghìn cánh lung linh, trăm báu sáng ngời. Đức Năng Nhân (Phật) 32 tướng tốt, 80 vẽ đẹp tuyệt vời nghiêm thân. Bậc Đại Giác khắp ở mười phương pháp giới; quá, hiện, vị lai vô lượng Phật bảo. Ngưỡng mong bất xả từ bi, thọ phẩm vật cúng dường này.

Tiếp theo trổi chuông trống, phách, chụp chã… cúng dường kệ tán dương Phật:

Kính lễ đấng Đại giác nơi liên đài (sen)

Oai đức rực rỡ không ai sánh cùng

Ngưỡng mong Phật bảo đại hùng

Từ bi nạp thọ lễ mừng Vu Lan.

Nam mô hương thủy hải hoa tạng giới Lan bồn cúng hiến chân như Phật đà da.

Duy Na cầm 3 nén hương bạch thỉnh:

Hôm nay đệ tử chúng con cung kính thiết lễ Vu Lan, tâm thành kính lễ một lòng phụng hiến:

Nước Tây Thiên Trúc, kinh điển liễu nghĩa thượng thừa tu đa la (Kinh), truyền qua chùa Bạch Mã 12 bộ chân kinh diệu điển; khắp mười phương vô biên pháp giới quá, hiện, vị lai vô lượng pháp bảo. Ngưỡng nguyện bất xả từ bi thọ pháp cúng dường này.

Chuông trống, phách đổ hồi, Duy Na tiếp:

Nam mô pháp tối thắng tương ưng

Thành tựu quả Bồ Đề Niết Bàn

Ngưỡng nguyện pháp bảo đại từ bi

Thọ pháp cúng dường Vu Lan hội.

Nam mô Hương Thủy hải, hoa tạng giới, Lan Bồn cúng hiến hải tạng Đạt ma da.

Chuông trống, phách đổ hồi, Duy Na bạch tiếp: Hôm nay đệ tử chúng con thiết lễ Vu Lan chí tâm kính lễ chuyên vì phụng hiến:

Ba minh, tám giải, năm nhãn, sáu thông, phân thân nơi cõi này và các cõi khác, ứng hiện tại nhân gian, trên cõi trời khắp 10 phương cùng tận pháp giới trong quá khứ, hiện tại, vị lại vô lượng Tăng Bảo, ngưỡng mong bất xả từ bi thọ nhận cúng dường này.

Chuông trống, phách đổ hồi, xướng tiếp:

Nam mô tự tại chúng trung tôn

Giữa rừng chiên đàn kẻ nhiếp tâm

Ngưỡng mong Tăng Bảo đại từ bi

Thọ cúng dường Vu Lan hội thí.

Nam mô Hương Thủy hải, hoa tạng giới, Lan Bồn cúng hiến phước điền Tăng già da.

Đại chúng đồng tụng hòa hưởn như sau:

Nam mô Thường trụ mười phương Phật 

Nam mô Thường trụ mười phương Pháp

Nam mô Thường trụ mười phương Tăng

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật 

Nam mô Quá Khứ Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật

Nam mô Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Phật 

Nam mô Đa Bảo Như Lai

Nam mô Bảo Thắng Như Lai

Nam mô Diệu Sắc Thân Như Lai

Nam mô Quảng Bác Thân Như Lai

Nam mô Ly Bố Úy Như Lai

Nam mô Cam Lồ Vương Như Lai 

Nam mô A Di Đà Như Lai

Nam mô Thế Gian Quảng Đại Oai Đức Tự Tại Quang Minh Như Lai

Nam mô Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh 

Nam mô Đại Từ Địa Tạng Vương Bồ Tát

Nam mô Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát 

Nam mô Đại Thế Chí Bồ Tát

Nam mô Hộ pháp chư thiên Bồ Tát 

Nam mô Già Lam thánh chúng Bồ Tát 

Nam mô Lịch đại Tổ sư Bồ Tát 

Nam mô Vu Lan Hội thượng Phật, Bồ Tát 

Nam mô Cổ vãng tự tứ Duyên Giác, Thanh Văn Tăng

Nam mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên tôn giả

Nam mô ba cõi Thánh phàm ẩn hiển Tôn Thần.

Tiếp theo tụng chú biến thực biến thủy 21 lần, cam lồ thủy, phổ cúng dường, mỗi câu 7 lần.

Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo (3 lần) 

Và đọc sớ văn như sau: Lại vì, tụng điển chương, thế thường tình rỗng, thật khó lưu giữ, tham chiếu yếu chỉ, Thánh điển Vu Lan Bồn, cảm niệm tu hành hướng thuyền từ cứu độ, bèn tỏ tấc lòng thành…(tên tự viện) tại…trụ trì…

Chúng con nhiếp niệm sớm cắt duyên trần, từ bỏ tình thân, hoặc cha hiền mất sớm, thiếu hẳn tình nồng. Hoặc cha mẹ còn sống mãi trái với tâm hiếu kính không làm lợi mình, lợi người, lại còn ngồi không, thọ của người thí, ngước lên xấu hổ, cúi xuống thẹn thùng. Dám mong hoài niệm về cội nguồn. Có được thân này đã nương nhờ ân đức thân sanh dạy dỗ nên người, nhờ bậc thầy sáng dẫn dắt. Gốc nguồn vô tận lưu giữ nghìn thu, giòng dõi, thành tâm độ khắp siêu ngoài pháp giới hữu tình; nương mượn thuyền con, gánh nước, hái hoa dâng cúng, kính nương theo Pháp Bảo. Giao hòa thiên địa để lưu ân đức, nhổ tận gốc khổ để bước lên bờ giác. Do vậy, chúng con chọn ngày này trong tháng khởi sự cho tới ngày… chấm dứt. Kính xin vân tập chúng tăng lên chánh điện, tụng kinh Vu Lan lễ Phật sám pháp.

Lại nguyện, ánh hào quang chiếu diệu cõi Ta Bà, chẳng nơi nào không sáng tỏ. Biển pháp mênh mông, hữu tình chúng sanh trong vũ trụ đều được gội nhuần ân đức. Cha mẹ nhiều đời của chúng con, vô lượng kiếp đầy đủ nhân duyên, đồng thời sư trưởngbà con quyến thuộc; được gia tăng phước huệ, kẻ mất chứng phẩm sen vàng, khắp thấm nhuần thiện nhân lợi lạc hằng sa cõi khổ. Lại nguyện sơn môn thanh tịnh, chúng lý an hòa, có bị ngăn chướng, mọi việc mong được như ý. Văn sớ bên trên, cung thỉnh Tam Bảo chứng minh gia hộ (có thể biên tên của Phật tử vào đây để đọc cầu nguyện…)

Lại nữa, pháp hội Vu Lan rành rõ thành Xá Vệ thơm hương còn in dấu, công đức vượt cõi nhân thiên. Hiếu hạnh Mục Liên mãi nhắc tên. Muốn cho bảy đời cha mẹ sanh lên phẩm sen, nên lễ 3 thân Phật tại đài sen. Chúng con chạnh nghĩ: xướng vị viên âm theo mỗi cõi chúng sanh thảy đều nhập pháp hội bình đẳng. Diễn hiếu tâm của bao đời hoặc thiện nam hay tín nữ thảy tuân theo di huấn của Phật. Ngưỡng mong thương xót bao dung, cứu thoát khỏi khổ bị treo ngược. Do đó, bổn tự chọn ngày… tháng này, cung kính về chùa… dâng cúng Vu Lan thắng hội, cầu siêu độ khắp tất cả hàm sanh. Chúng con sa nơi tội lỗi, ít gặp nhân lành, rạp mình nơi pháp hội, ngưỡng mong thương xót! Do đã chuẩn bị sẵn sàng pháp diên, biểu tỏ tâm thành dâng cúng. Nương nhờ oai đức Tỳ kheo Hòa thượng, mong hồng ân Tam bảo cầu siêu độ các tiên linh hiện được gội nhuần ân phước.

Lại nguyện: tâm từ cảm cách, Thánh nhãn tùy cơ, rải một cơn mưa thảy thấm nhuần, cõi đại thiên mong mỏi nhờ ân. Tứ thân phụ mẫu của chúng con, cùng nhiều đời thân thuộc đồng thừa phước lực này mà thoát khỏi cảnh khổ của 3 đường ác, vãng sanh về cõi Tịnh Độ lạc an. Cha mẹ còn hiện đời an khang khỏe mạnh, năm phước gia tăng, ba tai[1] biến mất. Như có cầu mong đều được như ý nguyện:

Đại chúng cùng tán bài sau đây:

Năm loại quả trăm mùi vị

Sắc màu tươi mới sạch thơm

Hội tự tứ hiến cúng Năng Nhơn

Nguyện đấng thân thoát trầm luân

Cứu độ khắp cõi u minh

Pháp giới chan hòa nắng xuân.

Nam mô phổ cúng dường Bồ Tát ma ha tát (3 lần).

Tiếp theo tụng Bát Nhã, sám nguyện, hồi hướng, phục nguyện, ba tự quy y.

Nguyện đem công đức cúng Vu Lan

Báo đáp mẹ cha sanh dưỡng ân

Người còn thọ phước sống an khang

Kẻ mất thoát khổ siêu lạc bang

Chúng sanh chín cõi các hàm thức

Giải khổ tám nạn và ba đàng

Mỗi mỗi tự hối tẩy tội vương

Ngưỡng mông thương cứu dứt trầm luân.

Tất cả đồng lạy Phật 3 lạy và lui về hậu liêu.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11644)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11969)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11358)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12074)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12570)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10774)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17994)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11735)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9959)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10181)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12360)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15355)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11252)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12118)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15379)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12011)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12421)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11194)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12096)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10625)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12564)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13178)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14849)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12698)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16586)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19677)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13116)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10909)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13536)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11962)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11852)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11645)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14529)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12625)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15670)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13633)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12912)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18025)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11176)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9087)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12188)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10321)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12204)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15323)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16613)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12227)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11490)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14278)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19712)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14158)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24617)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10697)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant