Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

9. Phụ: Biện chính thức Xoa Ma Na

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12287)
9. Phụ: Biện chính thức Xoa Ma Na

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7

Gồm có 2 phần thượng và hạ
Đời Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập
Đời Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh Hàng Châu chứng nghĩa
Ngài Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt.

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

1.9 Phụ: Biện chính thức Xoa Ma Na

Ngày nay việc truyền giới lầm dối rất nhiều, thậm chí như Thức Xoa Ma Na là một, thật là hết sức sai lầm. Ở đây không thể không bàn đến Ni y cứ theo thời Phật còn tại thế. Thường thường độ người xuất gia cho thọ giới mà không biết giới tướng tạo ra nhiều điều phi pháp. Phật dạy: phải cho hai năm học giới đúng pháp khiến hành giả trước là tập học rồi sau mới cho thọ giới đầy đủ. Hết thảy chúng Ni đều phải học giới, trừ tự tay lấy thức ăn, đưa thức ăn cho người khác. Trong các kinh luật hay ngay cả Lương Hoàng Sám, 5 chúng xuất gia thứ tự thì Thức Xoa đứng trên Sa Di, bởi vì vị này chuẩn bị học giới Đại Ni; cho nên gọi Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni là vậy, thậm chí lúc chúng nhóm họp, Phật dùng nghi thức bất tiện mặc dù Đại Ni cũng phải ở sau Sa Di; Thức Xoa phải sau Đại Ni nữa. Luật Tăng Kỳ ghi rằng, Tỳ kheo Ni ngồi dưới, Sa Di ngồi trên có từ giữa thời Minh; khai mở giới đàn, qui tắc luật lệ cơ hồ chẳng còn nghe thấy chăng? Chỉ phép học giới bỏ phế đã lâudanh nghĩa Thức Xoa cũng không nghe biết tới; đến độ có người nữ lưu chưa xuống tóc xin thọ 5 giới liền cho thọ Thức Xoa Ma Na, là đem sai truyền sai tới nay chưa cải đổi. Y cứ luận Đại Trí Độ khi Phật tại thế có một vị trưởng giả, vợ ông không hay có thai, xin xuất gia thọ giới Cụ Túc, sau đó thân bà ta mỗi ngày càng lớn ra nên những nhà quý tộc (giàu có) chê trách Tỳ Kheo Ni. Nhân đó, Phật chế Ni phải thọ 6 pháp học giới hai năm, sau mới cho thọ cụ túc. Căn cứ theo đây người phụ nữ cũng có thể thọ Thức Xoa Ma Na mà không phải chỉ đề cập tới đồng nữ không. 

Cũng Trí Độ luận rằng, Thức Xoa Ma Na có 2 loại: 

1) Đồng nữ 18 tuổi thọ 6 học giới 

2) Bé gái (phu gia) 10 tuổi được thọ 6 học pháp. Đây nói riêng giới đồng nữ

Phu gia 10 tuổi có thể hiểu là người hoặc nhân mẹ mất, hoặc nhà nghèo khổ không đủ sức nuôi dưỡng bèn đem bé gái cho phu gia nuôi dưỡng 10 năm. Tình trạngdần dần phát triển lại ở nhà người bão dưỡng thật khó nên không muốn việc đó. Ngoài ra đồng nữ đến tuổi 18 dù chưa lấy chồng, nhưng tuổi đã lớn nên phải dự phòng vậy. Nhưng không hẳn đồng nữ hay phụ nữ mà đã là kẻ xuất gia thì quyết định không còn hồ nghi thậm chí địa vị họ. Thức Xoa trước Sa Di và sau Tỳ Kheo Ni, với chí xuất gia cầu thọ giới cụ túc; không thể nên có ý hiềm nghi đó. Thức Xoa tạm huởn 2 năm để có cơ sở học giới; không so sánh với Sa Di chưa thọ giới Cụ Túc. Lại Thức Xoa thọ 6 pháp không giống năm giới của Ưu Bà Di. Nay ghi đủ phép học giới của Thức Xoa để giữ gốc nguồn. Cứ theo Luật sư Đạo Tuyên dẫn lục trong luật Tứ Phần tùy cơ yết ma phần 3, thiên thọ các giới pháp. Trong phần truyền giới Ni cũng ghi: sau thọ giới Sa Di Ni kế tiếp mới truyền pháp Thức Xoa Ma Na. Lại ở trước thập sư ni truyền bổn pháp rồi đến trước đại tăng thọ giới cụ túc. Chỉ tùy lúc yết ma truyền giới Thức Xoa phỏng dựa theo đây là thuận hợp. Gọi bổn pháp, là giới căn bổn của đại Tỳ Kheo Ni phải thọ, là học giới nữ, trước thời kỳ lên thọ giới Tỳ Kheo Ni. Nên đổi tên gọi là pháp bổn Ni; lại Thức Xoa Ni thăng tiến lên một bậc. Sa Môn Đàm Đế đời Tào Ngụy có biên tập pháp yết ma quyển hạ, trong đó có chữ “phụ nữ” thuộc quyển 9 như: Sa Di Ni sau khi thọ giới rằng, nghe đồng nữ 18 thọ giới Sa Di Ni 2 năm học đủ giới tới năm đủ 20 tuổi cho thọ giới Tỳ Kheo Ni. Xem thêm trong tăng thọ thiên giới v.v… Ngoài ra, Thức Xoa Ma Na thọ 6 giới như sau đây.

Sa Di Ni phải đến giữa chúng Tỳ Kheo Ni trịch y bày vai hữu, lễ Tỳ Kheo Ni, Tăng xong, quỳ ngay ngắn chấp tay tác bạch như thế này : 

Đại tỉ tăng lắng nghe con Sa Di Ni … nay từ chư tăng xin 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni thượng A hạ B mong tăng tế độ cho con, xin thương xót cho con 2 năm học giới. Lần thứ hai, lần thứ ba cũng bạch như vậy mới hợp pháp Sa Di Ni. Sau khi bạch xong lễ xuống 3 lạy rồi lui ra chỗ có thể thấy mà không thể nghe (phép yết ma) đợi đại Ni làm phép yết ma xong, cho vào mới bạch rằng:

Đại tỉ tăng lắng nghe, con Sa Di Ni… từ tăng xin 2 năm học giới, Hòa Thượng Ni A, nếu tăng phải thời mà đến, tăng thuận nghe; nay cho Sa Di Ni 2 năm học giới; với Hòa Thượng Ni A, bạch như thế, tác bạch có thành không?

Đại tỉ tăng lắng nghe, đây là Sa Di Ni… nay từ tăng xin 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni A…; nay cho Sa Di Ni 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni A, mong chư Đại Tỷ lắng nghe, Tăng cho Sa Di Ni … 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni A, nếu bằng lòng thì im lặng; ai không bằng lòng thời nói. Đây là pháp yết ma thứ hai, bạch như thế tác bạch có thành không? (lần thứ 3 cũng như vậy).

Tăng đã thuận cho Sa Di Ni … 2 năm học giới với Hòa Thượng Ni A xong, tăng đã bằng lòng thì im lặng. Việc như thế mà suốt biết. Nên như thế mà truyền cho 6 pháp.

Giới thứ nhất: Này giới tử: Đây là 6 học giới.

… Hãy lắng nghe cho kỹ, Như Lai vô sở trước đẳng chánh giác nói ra 6 pháp không được có phạm hạnh bất tịnh, tức là dâm dục. Nếu Thức Xoa Ma Na hành dâm dục, chẳng phải là Thức Xoa Ma Na, chẳng phải con giòng họ Thích; cùng với người nam có tâm ô nhiễm, thân xúc chạm nhau. Mất giới, giới kém nên cho thọ giới lại trong đó nên giữ suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không?

- Đáp: Mô Phật, con giữ được.

Giới thứ hai: không được trộm cắp cho chí cộng cỏ lá cây, nếu Thức Xoa Ma Na lấy của người giá 5 tiền, hoặc quá 5 tiền; hoặc tự lấy, khiến người lấy; hoặc tự đẳn hoặc bảo người đẳn; hoặc tự phá, bảo người phá, hoặc đốt, hoặc chôn, hoặc hoại sắc, chẳng sắc… Như thế Thức Xoa Ma Na chẳng phải con gái giòng họ Thích. Nếu lấy dưới 5 tiền giới kém phải nên thọ giới lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không?

- Đáp: mô Phật con giữ được.

Giới thứ ba: không được giết hại chúng sanh, cho chí con sâu, con kiến. Nếu Thức Xoa Ma Na cố tự tay giết chết người, cầm dao đưa người bảo giết chết, khuyên chết, tán dương chết, như cho uống thuốc, hoặc phá thai, yểm bùa, chú thuật hoặc tự làm, hay dạy người làm không phải là Thức Xoa Ma Na, không phải là con gái giòng họ Thích. Như giết loài súc sanh không thể biến hóa hình được nữa. Giới khuyết phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không?

- Đáp: mô Phật con giữ được.

Giới thứ tư: không nói dối cho đến giởn đùa. Nếu Thức Xoa Ma Na không nói chân thật, chuyện không nói có, như tự nói được pháp bậc thượng nhơn, nói chứng thiền, đạt được giải thoát, được tam muội chánh thọ; đạt quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, quả A Na Hàm; nói trời đến, rồng đến, quỉ thần đến … cúng dường tôi. Đây không phải là Thức Xoa Ma Na, không phải con gái giòng họ Thích. Nếu giữa chúng cố nói dối, giới kém phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không? 

- Đáp: mô Phật con giữ được.

Giới thứ năm: không được ăn phi thời. Nếu Thức Xoa Ma Na ăn phi thời; giới kém phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không? 

- Đáp: Mô Phật con giữ được. 

Giới thứ sáu: không được uống rượu. Nếu Thức Xoa Ma Na uống rượu phạm giới phải nên thọ lại, từ đây cho đến suốt đời không được phạm, con có thể giữ được không? 

- Đáp: Mô Phật con giữ được. 

Thức Xoa Ma Na đối với hết thảy giới của Ni trong đó phải học; trừ Tỳ Kheo Ni tới dùng bửa, cho ăn mới nên ăn. Trong đây 4 giới trước nếu phạm gọi là phạm 4 giới nặng nên cho ra khỏi chúng. Nếu phạm với tâm ô nhiễm đụng chạm thân người nam, trộm cắp dưới 5 tiền; dứt mạng loài súc sanh, nói dối, ăn phi thời, uống rượu gọi là khuyết giới. Trở lên các giới quy định, nếu làm đều phạm phải sám hối xin hai năm học pháp, mà vẫn phạm trở lại. Nếu phạm các giới căn bản của đại Ni tất phải như phápsám hối trong 2 năm học giới thanh tịnh rồi mới đưa ra giữa 2 bộ Tăng Ni cho thọ cụ túc giới.

Chứng nghĩa ghi, nếu Thức Xoa Ma Na phạm 6 giới ắt phải như pháp sám hối. Ba lần truyền giới vẫn phạm, lần thứ ba phán giới ngăn như ở trước, có nêu rõ hạng người thứ hai rằng, nếu là Thức Xoa Ma Na, đây gọi là học giới nữ, Phật dạy khiến cho học 3 pháp. Như lúc sám hối nên mỗi mỗi hỏi kỹ. Một là học căn bản: 4 giới trọng; hai là học 6 giới, như tâm nhiễm xúc chạm, trộm cắp dưới 5 tiền, giết sanh mạng, nói dối, ăn phi thời, cố uống rượu. Ba là học hành pháp có nghĩa là các giới đại ni trong những oai nghi. Nếu Sa Di, Sa Di Ni chỉ ban 10 giới căn bản trong đó 7 già trọng tội cả 3 chúng đều phải hỏi. Trong 3 chúng đây hoặc căn bản có phạm 7 già tội mỗi mỗi y luật tẩn trừ (đuổi). Nếu 6 pháp học giới nữ bất tịnh bèn cho 2 năm yết ma; do đương sự đã thọ giới Thức Xoa Ma Na, không phải hàng chúng Sa Di Ni. Lại nữa Thức Xoa Ma Na giới kém lại là người nữ chẳng chân thật học giữ giới thanh tịnh, nhưng cả hai không có điều nào quy định. Ba tụ giới thiếu sót nên không thể thọ Bồ Tát giới được. Trong 3 chúng chỉ nữ học giới nầy có quy định rõ. Thêm phần nghiêm trọng đối với Sa Di, Sa Di Ni, chỉ có Thức Xoa gần đại giới Ni vậy. Vì luật chế trước khi sắp thọ Bồ Tát giới phân kỹ giới có 4 loại: xuất gia Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni; xuất gia Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni; Phật tử nam nữ tại gia ham tu thập thiện đã thọ 5 giới. Từ cấp bực mà tiến lên để dần dần thọ các giới; người chợt phát đại tâm thọ Bồ Tát giới, có nghĩa là đốn thọ - thọ giới ngay tức khắc. Y theo luật chế, điều kiện của Thức Xoa Ma Na là ni xuất gia, không phải giới nữ lưu tại gia. Theo kinh Hoa Nghiêm ghi rằng, Thiện Tài đến Vương đô đại thành, muốn tham học với Bất Động Ưu Bà Di mà không biết ở đâu. Có nhiều người bảo cho Thiện Tài biết rằng, Thiện Tài đến Vương đô thành muốn tham học với Bất Động Ưu Bà Di đích thị là một đồng nữ tại gia, bà săn sóc cha mẹ v.v… căn cứ theo đây để thấy rằng đồng nữ cũng gọi là Ưu Bà Di vậy.

Căn cứ bộ Sự Sao thiên Ni chúng, có dẫn luật Thiện Kiến ghi rằng, lúc đầu Phật không độ cho người nữ xuất gia vì làm cho chánh pháp giảm mất 500 năm; về sau Phật mới vì họ nói 8 kỉnh pháp; ni giới nghe xuất gia y lời dạy thực hành pháp hoàn lại được ngàn năm. Thời nay không theo có nơi giáo pháp bị diệt như sách Hội Chánh ghi rằng, sau khi Phật thành đạo 14 năm Di Mẫu Đại Ái Đạo cùng với 500 thích nữ đến Phật cầu xuất gia, Phật không thuận hứa độ họ. Ngài A Nan vì họ trình bày rõ và thưa thỉnh 3 lần. Phật sai A Nan truyền bát kỉnh pháp cho họ, nếu như Ni có thể thực hành được, mới cho xuất gia. A Nan đáp: con xin vâng thọ trì. Là bạch bốn lần yết ma xong mới thuyết 8 kỉnh pháp và Ngài nói 8 kỉnh pháp. Đây là 8 pháp:

1- Tỳ Kheo Ni trăm tuổi gặp vị Tỳ Kheo mới thọ giới nên đứng lên đón tiếp, xá chào, han hỏi, mời ngồi 

2- Tỳ Kheo Ni không được nhạo báng Tỳ Kheo 

3- Không được cử tội Tỳ Kheo, không nói lỗi quấy của Tỳ Kheo. Tỳ Kheo được nói lỗi của Tỳ Kheo Ni.

4- Thức Xoa Ma Na đã học giới phải cầu thọ đại giới nơi chư Tăng

5- Ni phạm giới tăng tàn đưa ra trong lễ Bố Tát giữa tháng, trước hai bộ tăng chúng thực hành pháp cử tội. 

6- Trong nửa tháng Bồ Tát Ni đến tăng thỉnh cầu thầy giáo thọ (dạy chúng)

7- Tỳ Kheo Ni không nên ở chỗ không có Tỳ Kheo kiết hạ an cư.

8- Sau khi an cư xong, phải đến tăng Tỳ Kheo cầu 3 việc tự tứ, sám hối, đó là thấy – nghe - nghi.

Tám pháp như thế phải cung kính tôn trọng, tán thán hết mình trọn đời không nên vi phạm.

Chứng nghĩa ghi rằng, đây là mẫu mực tối sơ (ban đầu) độ ni chúng. Ngày nay việc truyền thọ giới còn chưa biết pháp này, huống chi hành trì?

Nhưng điều thứ 7 nói không nên ở chỗ không có Tỳ Kheo kiết hạ an cư. Đây dựa đại giới vuông 10 dặm hoặc tới 40 dặm, không có đại tòng lâm Tỳ Kheo không được an cư. Cho nên kỉnh pháp thứ 8 ghi rằng, sau khi an cư xong phải đến trước chúng Tỳ Kheo tăng cầu 3 việc tự tứ như: thấy - nghe -nghi. Y cứ pháp thứ 8 qui định: ni và đại tăng không ở chung một chùa cần nên biết. Theo sách Chiêu Khánh, Thầy Ngọc Luật thuật về 2 bộ tăng qua nghi thức truyền giới phần mở đầu rằng: “vào năm Đinh Mùi vào mùa xuân, tại Côn SơnHòa Thượng Ni Mật Chiếu cùng với Từ Thái phu nhơn lên núi Hoa Sơn thiết lễ cúng dường. Học chúng nữ đi theo xin thọ giới cụ túc, hành trì nửa tháng thuộc các oai nghi. Trước lão nhơn cử Mật Chiếu Ni làm Hòa Thượng, Ni Siêu TrầnDương Châu làm Yết Ma, Ni Viên Chứng ở Trấn Châu làm Giáo Thọ và chọn chư ni giới đức hạ lạp cao làm 7 tôn chứng, mở giới đàn truyền giới ni hơn 40 vị. Sau giới đàn đến am Nhất Diệp tỉnh Sơn Nam họp 2 bộ Tăng Ni, trước truyền bổn pháp. Ngày kế Hòa Thượng Ni cho họp chúng lại để thông bạch lời dạy của Như Lai, rồi cùng với hội đồng giới sư 9 vị, hướng dẫn chư ni, lên núi cầu xin thọ Đại giới. Lão nhơn liền tập họp 2 bộ tăng ni, vì đó tác pháp viên mãn.Việc này trước hết lão nhơn tuân lời Phật dạy 2 bộ tăng vì ni truyền nghi thức thọ giới; tức dẫn lễ, sắp xếp giới đàn đều do Ni chúng”. Căn cứ theo đây ra khỏi giới tràng tới am Nhất Diệp tại Sơn Nam phải họp ni chúng. Cho thấy kỉnh pháp thứ 7 không nên an cư nơi không có Tỳ Kheo để chỉ trong ngoại giới tràng mà nói, không phải nói Tỳ Kheo cùng an cư một chỗ. Lại sách Nhứt Mộng Mạn ngôn quyển hạ ghi rằng, vào khoảng tháng 2 năm Thuận Trị thứ 10, ở phủ Hán Dương thuộc Sở, có sư cô Tâm Văn độ 50 tuổi chuyên tu trì giới. Cùng môn đồ 9 người không kể nguy hiểm đường xa, tất cả 10 người lên núi cầu xin an cư 3 tháng và cúng dường 60 thạch gạo, 20 lạng bạc. Xem với tâm thành tha thiết của họ bèn được lân mẫn giúp đỡ, chấp thuận. Trong ngày cúng dường trai phạn họ không chịu vào trai đường hành lễ; thọ trai xong, Hòa Thượng họp chúng và bảo sư cô rằng: cô phát tâm từ xa tới học giới, vì sao không vào trai đường lễ chư Tăng? Luật dạy Tỳ Kheo Ni dù trăm tuổi phải lễ Tỳ Kheo mới thọ giới. Nay tự khinh mạn tăng không thể nào học giới được.

Sư cô đáp: con ở Sở, nếu có thiện tri thức tới chùa thiết cúng trai, Phương Trượng đều cho khách miển lễ nên không phải lễ lạy.

Tôi nói:

- Họ tham cầu lợi dưỡng làm bại hoại giáo pháp. Hễ thấy có Ni tới cúng dườngcung kính như mẹ ruột những mong được cúng hậu; ấy là vi trùng nơi thân sư tử chứ không thậtthiện tri thức. Núi Hoa Sơn chúng tôi dù sống đạm bạc, thà nhịn ăn chịu đói khát chứ quyết không tham lợiphạm luật. Hôm nay buổi cúng dường trai phạn là đãi chúng thường trụ, số tiền cúng hoàn lại cho cô; cũng như gạo để dưới viện có thể tới đó lấy về. Cô ta làm chuyện vô minh bèn nhận lại tiền rồi sau đó dẫn đồ đệ ra phía sau núi đứng trước tịnh thất Thủy Động, cho đệ tử là Cổ Đàm đi vào tịnh thất bạch rằng:

- Có Sư cô ở xa tới đang đứng ở ngoài động. 

Hòa Thượng bèn phương tiện chấp nhận để; 

1) làm cho cô không thoái tâm 

2) đại chúng được cúng dường nửa tháng.

Tôi nghiêm nghị trả lời: “Chỉ cần tu hành chân thật. Đại chúng chẳng treo bình bát (nhịn đói). Pháp môn tu tập lập đúng do nơi đạm bạc; Phật thuyết luật, sư hành luật đâu thể thấy lợi mà phạm Thánh chế ư?” 

Cổ Đàm thẹn đảnh lễ lui ra, độ 3 hôm sau sư cô Tâm Văn dẫn chúng lên núi, tất cả đều quỳ trước cửa phòng Phương Trượng khóc lóc, và nói rằng: ở Sở mông lung như thế, thật sự chúng con không dám tự khinh thường tăng. Khẩn cầu Hòa Thượng từ bi tha cho chúng con sám hối. Nên có câu rằng: dạy tuân theorăm rắp hành. Các vị lãnh đạo vì chúng bái cầu, do vậy tôi khiến tới Lộc Sơn trang kiết giới an cư. Tìm vị A Xà Lê nửa tháng tới thỉnh vị thầy giáo giới vì họ giảng bộ luật chính.

Nhân đó, bắt đầu có tập: Giáo Giới Tỳ Ni Chánh phạm gồm 1 quyển để lưu hành rộng. Qui tắc cổ đức dứt khoát rõ ràng cẩn thận như thế. Nghe xong khiến cả 10 người đồng đứng lên, lạy sám hối.

Hết quyển 7, phần trước.

1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11833)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11012)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11950)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10629)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17830)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11600)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9832)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10084)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12250)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15221)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11092)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14186)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11959)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15152)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11856)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12302)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11069)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11971)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10491)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12441)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13020)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14652)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12532)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16375)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19411)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12994)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12544)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12147)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11693)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10779)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11848)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11722)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11489)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12622)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14364)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15516)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13461)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12750)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17852)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11038)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12067)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12911)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10201)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12071)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15152)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12092)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11354)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14112)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19496)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14035)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24375)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10573)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant