- Tổng Quan
- Nghi Thức Sám Hối
- Ghi Chú
- Phẩm 1: Mở Đầu Pháp Thọai
- Phẩm 2: Thọ Lượng Thế Tôn
- Phẩm 3: Phân Biệt Ba Thân
- Phẩm 4: Âm Thanh Trống Vàng
- Phẩm 5: Diệt Trừ Nghiệp Chướng
- Phẩm 6: Minh Chú Tịnh Địa
- Phẩm 7: Hoa Sen Ca Tụng
- Phẩm 8: Minh Chú Kim Thắng
- Phẩm 9: Trùng Tuyên Về Không
- Phẩm 10: Mãn Nguyện Vì Không
- Phẩm 11: Thiên Vương Quan Sát
- Phẩm 12: Thiên Vương Hộ Quốc
- Phẩm 13: Minh Chú Ly Nhiễm
- Phẩm 14: Ngọc Báu Như Ý
- Phẩm 15: Đại Biện Thiên Nữ
- Phẩm 16: Cát Tường Thiên Nữ
- Phẩm 17: Tăng Trưởng Tài Vật
- Phẩm 18: Kiên Lao Địa Thần
- Phẩm 19: Dược Xoa Đại Tướng
- Phẩm 20: Vương Pháp Chính Luận
- Phẩm 21: Thiện Sinh Luân Vương
- Phẩm 22: Tám Bộ Hộ Trì
- Phẩm 23: Thọ Ký Thành Phật
- Phẩm 24: Chữa Trị Bịnh Khổ
- Phẩm 25: Truyện Của Lưu Thủy
- Phẩm 26: Xả Bỏ Thân Mạng
- Phẩm 27: Bồ Tát Tán Dương
- Phẩm 28: Diệu Tràng Tán Dương
- Phẩm 29: Thọ Thần Tán Dương
- Phẩm 30: Biện Tài Tán Dương
- Phẩm 31: Ký Thác Kinh Vua
KINH KIM QUANG
MINH
(KINH ÁNH SÁNG HOÀNG KIM)
Hoà Thượng Thích Trí Quang Dịch Giải
Bản Hoa Dịch của Ngài Nghĩa Tịnh
Ghi chú
Ghi Chú
(1)
Tên kinh này gọi
đủ là Kim quang minh tối thắngvương. Kim quang minh: ánh sáng hoàng kim. Tối
thắng vương: chúa tể tối thượng.
Ghi Chú (2)
Chính văn là độc,
tụng, thọ, trì, thư tả.
Ghi Chú (3)
Diệu tràng, Phạn:
Ruciraketu. Bản ngài Đàm mô sấm dịch là Tín tướng.
Ghi Chú (4)
Chính văn là
kiếp.
Ghi Chú (5)
Chính văn là ngã
kiến, nhân kiến, chúng sinh, thọ giả, dưỡng dục, tà kiến, ngã ngã sở kiến, đoạn
thường kiến.
Ghi Chú (6)
Hiến cúng (cúng
dường = cung dưỡng) có 3: một là lợi hiến cúng: hiến dâng cúng phẩm; hai là
kính hiến cúng: kính trọng đủ cách; ba là tu hiến cúng: thực hành thiện căn
(luận Đại trang nghiêm, Chính 39/198).
Ghi Chú (7)
Chính văn là căn
tánh ý lạc và thắng giải.
Ghi Chú (8)
Chính văn là thị
giáo lợi hỷ.
Ghi Chú (9)
Chính văn là thập
nhị phần giáo.
Ghi Chú (10)
Chính văn ở đây là
khí lượng: dung lượng của đồ chứa. Trình độ của chúng sinh là như khí lượng:
tùy khả năng mà tiếp nhận Phật pháp khác nhau.
Ghi Chú (11)
Cảnh trí: tâm trí
như gương. Không phải chỉ là đại viên cảnh trí, mà ở đây chỉ cho vô phân biệt
trí.
Ghi Chú (12)
Như như: như nhau
như nhau. Chính nghĩa là vô phân biệt.
Ghi Chú (13)
Chính văn là tự
tha, chính xác thì nên dịch là chủ thể khách thể.
Ghi Chú (14)
Những định không
còn tư tưởng và cảm giác, như vô tưởng định, diệt tận định.
Ghi Chú (15)
Không ảnh là hình
ảnh có ra là có trong không gian, nhờ không gian; nếu không có khoảng trống thì
chẳng hình ảnh nào có được.
Ghi Chú (16)
Cũng nên nói bất
trụ sinh tử nữa (Chính 39/217).
Ghi Chú (17)
Chính văn là hành
pháp: cái pháp có tính cách chuyển biến (tức hữu vi).
Ghi Chú (18)
Thật ra nên nói cả
10 địa nữa, vì đây là tha thọ dụng thân.
Ghi Chú (19)
Chính văn là tướng
cập tướng xứ, Chính 39/222 nói là nhân ngã pháp ngã. Tôi nghĩ hơi khác; tướng
là ngã pháp, tướng xứ là y tha phần nhiễm. Do vậy, đáng lẽ tướng cập tướng xứ
nên dịch là ảo giác và căn cứ của ảo giác.
Ghi Chú (20)
Niết bàn và đường
đến niết bàn.
Ghi Chú (21)
Thân này là thân
này đây, thân chúng ta đây, mà nói chính xác là cái "thắng thân"
(thân hơn bình thường), cái thân "đạo khí" (đồ chứa đựng Phật pháp)
mà ghi chú 22 nói. Coi thêm ghi chú ấy.
Ghi Chú (22)
Chính văn là thị
thân nhân duyên cảnh giới xứ sở quả y ư bản. Theo Chính 39/223, thân (bản thân)
là quả báo được cái thắng thân làm đồ chứa đựng chánh pháp, và đó là dị thục quả.
Nhân duyên (yếu tố) là thắng thiện đã tu trong đời trước, và đó là tăng thượng
quả. Cảnh giới (đối cảnh) là bồ đề và niết bàn, sở duyên của đẳng lưu quả. Xứ sở
(đối tượng) là đại bồ đề mà sĩ dụng quả nguyện cầu. Quả y ư bản (kết quả; nhưng
4 chữ liền lại thành 1 từ ngữ thì phải dịch là căn bản) là ly hệ quả không rời
như như lý. Nhưng cách chấm câu như vậy tôi không đồng ý, nên đã chấm câu và
dịch như đã dịch.
Ghi Chú (23)
Chính văn là đại
thừa, Như lai tánh, Như lai tạng.
Ghi Chú (24)
Tự tại là ngã. Ngã
trong 4 đức niết bàn của Phật không phải là nghĩa chủ tể (khái niệm về ngã của
ngã chấp).
Ghi Chú (25)
Là 32 tướng tốt,
80 tướng phụ, 18 bất cọng, 10 lực, 4 vô úy, đai bi, 3 niệm, 32 độc đắc. Tham
chiếu Chính 39/224-226.
Ghi Chú (26)
Chính văn ở đây là
tướng.
Ghi Chú (27)
Ở đây nghĩa là phi
nhị biên.
Ghi Chú (28)
Là pháp thân, đại
định, đại trí.
Ghi Chú (29)
Chính văn là thế
thiện, nói đủ là thế gian thiện căn, đối lại với xuất thế thiện căn.
Ghi Chú (30)
Có 5 sự: sợ không
đủ sống, sợ chết, sợ đường dữ, sợ tiếng dữ, sợ công chúng.
Ghi Chú (31)
Là trung tính,
không thiện, không ác, tản mạn, không kiểm soát.
Ghi Chú (32)
Dịch đủ là mộng
thấy trống vàng ròng phát ra âm thanh diễn đạt diệu pháp sám hối.
Ghi Chú (33)
Tám nơi là địa
ngục, ngạ quỉ, súc sinh (khổ quá) bắc câu lô (vui quá) cõi trời trường thọ (yên
ổn quá) điếc mù câm ngọng, thế trí biện thông (thông minh rất đời) sinh trước
hay sau Phật (mà không còn Phật pháp). Đây là 8 nơi gọi là nạn (khó cho sự thấy
Phật nghe Pháp) là không rảnh (không có sự tu tập xen vào).
Ghi Chú (34)
Chính văn là hữu
hải, chỉ cho 3 cõi mà tổng kê có 25. Có, hữu, là hiện hữu sinh tử, không phải
niết bàn (như ngoại chấp không dưới 3 trong số 25 hữu ấy).
Ghi Chú (35)
Nói ở phẩm 7 cuốn
5.
Ghi Chú (36)
Coi ghi chú
38.
Ghi Chú (37)
Chính văn là nhân
duyên.
Ghi Chú (38)
Từ ghi chú số 36
đến đây dịch theo sự sớ giải của Chính 39/245-246.
Ghi Chú (39)
Đối chiếu văn
chỉnh cú (coi ghi chú 40 ) thì câu này có nghĩa coi các vị bồ tát mới tu cũng
như bậc Nhất thế trí (để thân gần, phụng sự, tu học).
Ghi Chú (40)
Nghĩ, chính văn là
tưởng. Phải đổi, vì tưởng đặt ở đây, ngữ khí sẽ có nghĩa ngỡ là, không đúng ý ở
đây.
Ghi Chú (41)
Tướng là người
cho, người nhận, vật cho, là mục đích và quả báo. Trú tướng thì chấp có, xả
tướng thì chấp không, hồi hướng bố thí mà như vậy thì không chính xác đối với
tâm lý và mục đích của sự hồi hướng bố thí.
Ghi Chú (42)
Chính 39/250 nói,
không thể sánh bằng là vì kinh này năng lực làm cho những thắng hạnh ấy được
thực hành, nên nói không thể sánh bằng. Không phải những thắng hạnh ấy không
thể sánh bằng. Xin thêm rằng đây chỉ là cách đề cao kinh này. Có 11 thắng hạnh
không thể sánh bằng. Nhưng câu kết, dịch "thì không thể sánh bằng"
khác hẳn nếu dịch "cũng không thể sánh bằng".
Chữ của chính văn,
nhưng không chắc hoàn toàn có nghĩa như ngày nay hiểu.
Ghi Chú (43)
Tu hành: pháp được
tu, không phải tu hành: pháp phải diệt; ở đây 2 thứ này là của tâm bồ đề (Chính
39/253).
Ghi Chú (44)
Đúng ra nên nói là
phục tạng: Kho tàng ngầm dưới mặt đất mặt nước.
Ghi Chú (45)
Các hành ở đây là
12 duyên khởi.
Ghi Chú (46)
Năm chướng nạn là
ác thú, ác quỉ, giặc thù, tai họa nước lửa, ba loại khổ não. Mười địa giống
nhau.
Ghi Chú (47)
Ghi chú này có 2
điều Một, văn trước minh chú đổi thứ tự một chút cho thích hợp hơn. Hai, minh
chú không chép phiên âm của Hoa văn, vì nhiều chữ tra không ra cách đọc, tra có
ra cũng đọc rất khó. Nên ở đây dịch âm từ Phạn tự, và sao lục cả Phạn tự ấy.
Phạn tự sao lục từ ghi chú của Chính 16/420-450, còn dịch âm là do Hòa thượng
Thích Minh Châu (lưu ý: chữ có R ở giữa thì đọc như chữ Pháp, thí dụ: tra là
tr-a, sri là sr-i, v/v) Kinh này có 35 bài minh chú tất cả, và đều làm như
vậy.
Ghi Chú (48)
Dịch đủ là sự ca
tụng Phật là công đức ví như hoa sen.
Ghi Chú (49)
Dịch đúng chính
văn là phòng tối (ám thất).
Ghi Chú (50)
Thức ăn tịnh hắc
là thế nào thì không biết, chỉ biết Chính 39/272 nói nhuộm cho đen cũng được.
Nhưng tại sao phải là thức ăn màu đen, và tại sao phải ăn lúc mặt trời chưa mọc,
thì không thấy xuất xứ trên giải thích.
Ghi Chú (51)
Thiện phương tiện:
phương cách khéo léo. Thắng nhân duyên: yếu tố ưu việt.
Ghi Chú (52)
Tri giả: chủ thể
tri thức. Tác giả: chủ thể hành động.
Ghi Chú (53)
Tức là điểu
táng.
Ghi Chú (54)
Tật dịch là bịnh
dịch, bịnh thời khí, nói chung là bịnh truyền nhiễm.
Ghi Chú (55)
Đoạn nhỏ này có
lược mấy câu.
Ghi Chú (56)
Chúng sinh có liên
hệ với mình, chính văn là hữu duyên chúng sinh.
Ghi Chú (57)
Tức như nói mất
chủ quyền, độc lập.
Ghi Chú (58)
Tức như nói nhiệt
độ gấp đôi.
Ghi Chú (59)
Chính văn là tịnh
thất.
Ghi Chú (60)
Tịnh thất: cái
phòng sạch sẽ.
Ghi Chú (61)
Cù ma (gomaya) là
ngưu phấn. Coi ghi chú 69 .
Ghi Chú (62)
Ngài Nghĩa tịnh tự
ghi: Ca li sa ba na (karsapana) đúng ra chỉ là bối xỉ (bối xỉ là vỏ sò, xưa lấy
làm tiền tiêu). Nhưng tùy xứ mà chữ ấy có nơi là bối xỉ, có nơi là tiền kim loại.
Xứ Ma kiệt đà thì 1 karsapana ăn 1600 bối xỉ (1 bối xỉ ăn 16 hay 19 tiền cổ).
Nhưng có Phạn bản chép mỗi ngày cho 100 trần na ra (tiền vàng). Trì chú này thì
suốt đời ngày nào cũng được cho như vậy. Ấn độ cầu nguyện đa số linh nghiệm,
trừ ra không dốc lòng. (Chính 16/431).
Ghi Chú (63)
Dịch đủ là như
vành bánh xe có cả ngàn cái díp.
Ghi Chú (64)
Năng lực là đạt
được kết quả, đường chính là phi nhị biên, lý thể là chân như, sức mạnh là diệt
ác sinh thiện.
Ghi Chú (65)
Phạn tự của tên 4
vị này như sau: Agate, Satadru, Cyutaprabha, Sutamani.
Ghi Chú (66)
Dịch Quan thế âm
là từ một thuyết khác, và danh hiệu này không đủ, không phải chính phiên (Chính
39/300).
Ghi Chú (67)
Đây là Phạn văn
của 32 vị. Tham chiếu Chính 16/434-435.
1. xương bồ
(vaca)
2. ngưu hoàng
(gorocana)
3. mục túc hương
(sephalika)
4. xạ hương
(mahabhaga)
5. hùng hoàng
(manassila)
6. hợp hôn thụ
(sirisa)
7. bạch cập
(indrahasta)
8. khung cùng
(syamaka)
9. câu kỷ căn
(sami)
10. tùng chi (sri
- vibhitaka)
11. quế bì
(tvaca)
12. hương phụ tử
(musta)
13. trầm hương
(agaru)
14. chiên đàn
(candana)
15. linh lăng
hương (tagara)
16. đinh tử
(?)
17. uất kim
(knnkuma)
18. bà luật cao
(galava)
19. vi hương
(naradamsa)
20. trúc hoàng
(gorocana)
21. tế đậu khấu
(sukumara)
22. cam tùng
(misganta)
23. hoắc hương
(patna)
24. mao căn hương
(usira)
25. sất chi
(sallaki)
26. ngải nạp
(saileya)
27. an tức hương
(guggula)
28. giới tử
(sarsapa)
29. mã cân
(sophaghni or sosani)
30. long hoa tu
(nagakesala)
31. bạch giao
(sarjarasa)
32. thanh mộc
(kustha)
Ghi Chú (68)
Phạm văn: Pusya.
Kinh cũ gọi là quỉ tinh (Chính 39/302)
Ghi Chú (69)
Tráng lát nền nhà
hay tường vách, đều dùng vật liệu hiện đại, mới sạch sẽ trang trọng.
Ghi Chú (70)
Đồng tử: giữa tuổi
thiếu nhi với thiếu niên.
Ghi Chú (71)
Ấn với Tàu phân
tích tất cả âm điệu có 5 cung bậc, gọi là ngũ âm.
Ghi Chú (72)
Là mỗi tháng âm
lịch mà là nửa sau, tức 16-30. Ngày 9 là 24, ngày 11 là 26.
Ghi Chú (73)
Là như thủy triều
ứng theo mặt trăng.
Ghi Chú (74)
Là làm cù lao, làm
bãi nổi, cho người khỏi bị trôi cuốn.
Ghi Chú (75)
Chú tán là tán
dương bằng minh chú, và minh chú ở đây là hiển ngữ (lời chữ không bí
mật).
Ghi Chú (76)
Là 3 loại thế
gian. Thông thường là 1. ngũ uẩn thế gian: thế giới tổng thể, tức 5 uẩn; 2.
chúng sinh thế gian: thế giới chủ thể, tức thọ tưởng hành thức và phần nội sắc;
3. quốc độ thế gian: thế giới khách thể, tức phần ngoại sắc.
Ghi Chú (77)
Ngài Nghĩa tịnh
ghi chú: Trên đây là minh chú để trì tụng, cũng là minh chú để tán dương. Khi
tụng chú thì phải tụng chú tán này trước. (Chính 16/437).
Ghi Chú (78)
Ngài Nghĩa tịnh
ghi chú: Minh chú phẩm này có lược có rộng, có mở có hợp, trước sau bất đồng.
Phạn bản có nhiều. Tôi y theo 1 bản mà dịch. Sau này ai tìm hiểu thì phải biết
như vậy (Chính 16/437)
Ghi Chú (79)
1. Tất cả chỉnh cú
đoạn này có thể dịch khác hơn, thí dụ "Kính lạy chư Như lai, bậc hùng biện
nhiệm mầu" ... Nhưng xét ra không bằng dịch như đã dịch.
2. Sau đây là một
số Phạn văn trong đoạn này: Ô ma: Uma, Tắc kiến đà: Skanda, Ma na tư: Manasi,
Thông minh dạ thiên: Ratridevata, Phệ sốt nộ thiên: Visnu, Tì ma thiên nữ:
Bhima, Thị số thiên thần: Samkhyayama (?), Thất lị thiện nữ: Sisumata, Hê lị: Heli,
Ha ri để: Hariti.
Ghi Chú (80)
Triền: những sự
ràng buộc tâm thức, cái: những sự che đậy tâm trí.
Ghi Chú (81)
Trần tập: tập khí
của phiền não.
Ghi Chú (82)
Mãn tài: Purna -
bhadra. Ngũ đỉnh: Pancasikhi.
Ghi Chú (83)
Thì gian thích hợp
lẽ ra là sau lúc bình minh.
Ghi Chú (84)
Đúng chính văn là
tâm chú - Tâm chú cũng như tâm kinh. Bài minh chú tinh túy, cốt lõi, thì gọi là
tâm chú.
Ghi Chú (85)
Là mỗi tháng âm
lịch mà là nửa trước. Đối lại, nửa sau gọi là tháng trăng tối.
Ghi Chú (86)
Coi lại ghi chú 68
.
Ghi Chú (87)
Các pháp có gì là
hiện tượng, các pháp là gì là bản thể. Tùy hiện tượng mà biết thì gọi là như
lượng trí (cái trí biết hết cái lượng của các pháp). Như bản thể mà biết thì
gọi là như lý trí (cái trí biết đúng cái thể của các pháp).
Ghi Chú (88)
Tra không ra. Đọc
mâu thử cũng chỉ đọc theo bán âm. Và theo bán âm này mà suy thì mâu thử có thể
là một loại mâu.
Ghi Chú (89)
Coi lại ghi chú 76
.
Ghi Chú (90)
Đề này, đúng chính
văn là chư thiên và dược xoa hộ trì. Nhưng nội dung phẩm này nói tám bộ hộ trì,
nhất là bộ chúng dược xoa. Nên Phạn văn chỉ đề Yaksa.
Ghi Chú (91)
Hành xứ: chỗ đi.
Là chỗ Phật biết và Phật làm, gọi là hành xứ của Phật.
Ghi Chú (92)
Sau đây là Phạn
văn những tên trong các bài chỉnh cú 25-41. Hồ vô nhiệt: Anayatapta, Sa yết ra:
Sagara, Tô la kim sí chủ: Asura (metri causa), Phệ sốt nộ: Visnu, Diêm la:
Yama, Na la diên: Narayama, Tự tại: Mahesvara, Chánh liễu tri: Sanjaya, Kim
cương dược xoa: Vajrapani, Bảo vương dược xoa chủ: Manibhadra, Mãn hiền vương:
Purnabhadra, Khoáng dã: Atavaka, Kim tì la: Kumbira, Tân độ la: Pingala, Hoàng
sắc: Kapila
Ghi Chú (93)
Đây là Phạn văn
những tên trong các chỉnh cú 43-46. Thái quân: Citrasena, Vi vương: Jinaraja,
Thường chiến thắng: Jinarsabha, Châu cảnh: Manikanta, Thanh cảnh: Nilakanta,
Bột lý sa vương: Varsadhipati, Đại tối thắng: Mahagrasa, Đại hắc: Mahakala, Tô
bạt noa kê xá: Suvarnakesin, Bán chi ca: Pancika, Dương túc: Chagarapada, Đại
bà dà: Mahabhaga, Tiểu cừ: Pranali, Hộ pháp: Dharmapala, Di hầu vương: Markada,
Châm mao: Suciloma, Nhật chi: Suryamitra, Bảo phát: Ratnakesa, Đại cừ:
Mahapranali, Nặc câu la: Nakula, Chiên đàn: Candana, Dục trung thắng:
Kamasresta, Xá la: Nagayasas, Tuyết sơn: Hemavanta, Sa đa sơn: Satagiri.
Ghi Chú (94)
Đây là Phạn văn
của các tên trong chỉnh cú 48. A na bà đáp đa: Anavatapta, Sa yết ra: Sagara,
Mục chân: Mucilinda, EÁ la diệp: Erapata, Nan đà: Nanda, Nan đà nhỏ:
Upananda.
Ghi Chú (95)
Phạn văn các tên
trong chỉnh cú 50. Bà trĩ: Vali, La hầu la: Rahula, Tì ma chất đa la:
Vemacitra, Mẫu chỉ chiêm bạt ra: Samavara, Đại kiên: Khuraskanda,
Ghi Chú (96)
Phạn văn các tên
trong chỉnh cú 52 và 53. Ha lị để: Haliti, Chiên trà: Canda, Chiên trà lị:
Candalika, Chiên trĩ nữ: Candika, Côn đế: Danti, Câu tra xỉ: Kutadanti, Hút
tinh chất chúng sinh: Sarvasattojaharini.
Ghi Chú (97)
Thực phẩm vào dạ
dầy thì một mặt thành đại tiểu thải ra, một mặt thành tự vị nuôi thân. Vị là tư
vị ấy.
Ghi Chú (98)
Ngang đây rõ ràng
là thiếu. Mà có thể thiếu không dưới vài ba câu. Đáng lẽ nói thêm và kết thúc
về tướng chết, mới nói về thuốc. Ở đây nói liền về thuốc thì không thích đáng.
Bản dịch Đàm mô sấm càng không hơn gì.
Ghi Chú (99)
3 trái là ha lê
lặc ca, ca ma lặc ca, tỉ tỉ đắc ca. 3 cay là can cương, hồ tiêu, tất bát.
(Chính 39/326).
Ghi Chú
(100)
Chính văn là câu
vật đầu. Có người nói là sen trắng, có người nói là sen hồng, có người nói chưa
nở thì trắng, nở rồi hồng đậm. Ở đây ý kiến sen trắng thích hợp hơn.
Ghi Chú
(101)
Đại thế chúa
(Mahaprajabati) (?)
Ghi Chú
(102)
Là 5 vị tỷ kheo
đầu tiên của Phật.
Ghi Chú
(103)
Có 3 kinh nói đến,
tôi chọn 1: kinh Phạn ma dụ. Kinh ấy nói 8 đặc tính của tiếng Phật là tuyệt
diệu, dễ hiểu, sâu xa, dịu ngọt, không dối, không lầm, tuệ giác, điều hòa
(Chính 39/337).
Ghi Chú
(104)
Lẽ ra nên nói trái
lại.
Ghi Chú
(105)
Đẳng trì: dị danh
của định.
Ghi Chú (106)
Lược bớt 1 ví dụ
là sóng nắng (chỉ để cho chỉnh chữ). Ảo tượng, sóng nắng, trăng dưới nước, là
biến thể muôn vàn.
Ghi Chú
(107)
Chỗ Phật ở chỗ
Phật đi là chân như và tuệ giác chân như.
Ghi Chú
(108)
Từ là lời tiếng
(gồm cả ngữ văn). Biện là hùng biện.