KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.21. SÂN ĐẢ BÁO THÙ GIỚI
(giới tức giận
đánh lại để báo thù)
Kinh
văn
1. Phiên
âm:
Từ câu
“nhược Phật tử bất đắc dĩ sân báo sân...” cho đến câu “phạm khinh cấu
tội”.
2. Dịch
nghĩa:
Nếu là Phật
tử thì không được đem giận trả giận, lấy đánh trả đánh. Nếu cha mẹ hay anh em
hoặc lục thân bị người giết, cũng chẳng được báo thù. Giết sanh mạng để báo thù
sanh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo. Cả đến việc nuôi chứa tôi tớ
hãy còn không được đánh đập, mắng nhiếc họ, để mỗi ngày ba nghiệp tạo vô lượng
tội, nhất là khẩu nghiệp, huống chi cố làm tội thất nghịch. Nếu vị Bồ Tát xuất
gia mà không có lòng từ bi, cố ý báo thù, nhẫn đến cố báo thù cho thân thuộc
trong hàng lục thân, Phật tử này phạm khinh cấu tội
Lời
giảng:
Giới trước giảng về
tội lỗi thấy
chúng sanh bị khổ mà không cứu. Giới
này chỉ rõ lỗi đối với kẻ oán thù khởi niệm
trả thù.
Cả hai việc này đứng về cương vị của một vị
Bồ
Tát đều không được hành động. Là một vị
Bồ Tát chân chính,
xuất phát từ tâm
niệm
từ bi, khi thấy khổ đương nhiên phải cứu. Đối với
trường hợp những kẻ
oan
gia đối đầu cũng không được
khởi tâm niệm
trả thù.
Một kẻ
sở dĩ đem oán thù trả oán thù, chỉ vì bên
trong không hàm chứa
lòng từ bi, bên ngoài không có
hành vi lân mẫn. Vì thế,
nếu không sân hận,
mắng nhiếc, thì cũng đánh đập,
xua đuổi người. Làm như thế
chẳng những không thể
giải quyết được gì mà
trái lại làm cho
vấn đề càng trở
nên
phức tạp.
Do nơi sân hận,
mắng nhiếc,
ẩu đả, xô đẩy nhau,
nên sau đó nhà
ai nấy ở. Lúc
gặp nhau bên ngoài
biểu lộ đôi mắt đỏ ngầu, bên
trong ôm ấp tức giận không nguôi. Do đó, sự oán giận giữa hai bên không bao giờ
chấm dứt. Thậm chí kết thành oan trái nhiều đời, nhiều kiếp. Với hành động và
tâm niệm này, không thể nào là
tâm từ bi
cứu nhân độ thế của một vị
đại
sĩ.
Lại nữa, một vị
Bồ Tát phải dùng
tâm từ bi
đối
đãi với
chúng sanh. Dù
chúng sanh có
vô lý gây chuyện với bạn, bạn cũng phải
dùng
tâm lượng quảng đại mà nhẫn thọ, không được
trả thù để
thỏa lòng sân hận
của mình.
Nên biết rằng
sở dĩ chúng sanh có
hành vi phi lý
với bạn như vậy là do
phiền não xung động sai sử, chứ không phải họ có
ý muốn
như vậy. Vì thế, bạn cần chi phải
sân hận,
mắng nhiếc, đánh đập, cãi vả lại, để
trở nên hạng đồng với
tri kiến tầm thường của chúng sanh?
Nếu như
Bồ Tát mà còn
sân hận, đánh đập,
báo thù
giống với người tầm thường thì
hoàn toàn trái phạm
Tam Tụ Tịnh Giới của
Bồ Tát
cần tuân giữ.
Ví như có người
đả kích bạn, bạn
đả kích trở lại, thì sự oán hờn,
sân hận không
chấm dứt ấy là trái phạm
Nhiếp Luật Nghi Giới.
Trường hợp nên
nhẫn nhục mà
không nhẫn nhục thì
thiện hạnh không
tăng trưởng, như vậy trái phạm
Nhiếp Thiện Pháp Giới. Không
dùng
tâm bình đẳng quán sát,
đối đãi với
chúng sanh; do đó,
chúng sanh sẽ
dần
dần xa lìa bạn, đó là
trái với Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Tam Tụ Tịnh Giới của
Bồ Tát đều trái phạm thì có
thể nói rằng
Bồ Tát thừa bị mất hẳn.
Trái lại, nếu bạn không
trả thù, sân đả
với người thì chẳng những không trái phạm
Nhiếp Luật Nghi Giới, lại còn
tránh
khỏi sự
thống khổ oán tắng
gặp nhau.
Nếu bạn có thể
nhẫn nhục đừng
sân hận thì chẳng
những không trái phạm
Nhiếp Thiện Pháp Giới, mà lại còn
vĩnh viễn diệt trừ oan
khiên trong nhiều kiếp.
Nếu bạn có thể dùng
từ tâm,
nhẫn nhục tâm,
bình
đẳng tâm, mà
quán sát tất cả
chúng sanh là
cha mẹ, anh em của mình thì chẳng
những không
trái với Nhiếp Chúng Sanh Giới mà lại còn khiến cho
chúng sanh sanh
ý muốn luôn luôn gần gũi bên bạn.
Nho gia Trung Quốc xưa nay chủ trương: “Dĩ trực
báo oán, dĩ đức báo đức” (dùng sự ngay thẳng đối với kẻ oán thù, đem
ân đức đối
với người
hiền đức).
Có người hỏi rằng: Như thế thì
lý thuyết trong
Phật pháp cùng
lý thuyết các
Nho gia sao lại có sự sai khác lớn lao như
vậy?
Đáp:
Nguyên nhân ấy vì
Nho gia thực hành lễ
pháp
nhập thế nên
cho phép báo oán,
báo cừu. Như sách
Lễ Ký nói: “Với
kẻ thù của
quốc vương,
phụ mẫu thì không đội trời chung với người ấy. Với
kẻ thù của anh
em thì không đi chung đường với người ấy. Với
kẻ thù của bạn bè thì không
ở
chung một nước”.
Hoặc nói: “Giết người sẽ bị tội tử hình,
pháp
luật ấy
đời đời noi theo, đoạn mạng quyết phải đền mạng”.
Còn
Phật pháp là pháp
xuất thế, vận
dụng tâm từ
bi phổ độ,
cố gắng thực hiện cho đến mức
oán thân đều
bình đẳng, không còn có
sự
phân biệt thân và sơ. Vì
thế chủ trương “dĩ trực báo oán”
thế gian là có thể
làm, nhưng
trái lại,
Phật pháp hoàn toàn triệt để ngăn cấm.
Từ đó, có thể thấy rõ sự bất đồng từ trong cơ
bản giữa
Phật pháp và
thế pháp; và chỗ siêu thắng của
Phật pháp hơn
thế pháp
cũng chính ở điểm này.
Đức Phật đối với
đại chúng dạy rằng: “Nếu một
Phật tử đã
thọ giới Bồ Tát, đáng lý nhẫn hạnh bên trong phải
sung mãn,
từ bi
bên ngoài phải láng lai, không nơi nào không
biểu lộ tâm niệm ái hộ với tất cả
chúng sanh. Cho nên không được “đem giận trả giận, lấy đánh trả đánh”.
Giận là một thứ
phiền não rất nặng. Trên
thế
gian này, biết bao việc
rối ren đều do
sân tâm, thiếu
nhẫn nhục mà phát sanh.
Đa số người vì
sân tâm, thiếu
nhẫn nhục mà
phá hoại không biết bao nhiêu
công
đức thiện pháp. Một người
danh thơm lừng lẫy chỉ vì
sân tâm không nhẫn mà bao
nhiêu
tiếng tăm đều
bị hủy diệt.
Vì thế muốn
bảo vệ thiện pháp tự lợi, phải
đề
phòng sự thiêu đốt của lửa sân. Muốn
giữ gìn công đức lợi tha, lại càng phải
đề
phòng sự trộm cướp của giặc sân.
Do vậy, làm người trên
thế gian ai ai cũng đều
không nên vọng sanh tâm
sân hận. Với kẻ
thế tục thông thường, không biết cách
ngăn chận tâm sân, chưa biết
công phu tu trì nên lắm lúc không
tránh khỏi sanh
tâm
sân hận.
Trường hợp này có thể
dung thứ. Nhưng đối với
hành giả đã có
công
phu tu trì trong
Phật pháp, đã không còn mong cầu điều gì trong
thế tục, mà lại
thường
khởi tâm sân hận thì không thể nào
thành tựu công đức.
Hơn nữa, những
hành giả thông thường trong
Phật
pháp khi sanh tâm
sân hận thì chỉ bị lửa sân thiêu đốt
tâm can, nhưng không đến
nỗi gây
ảnh hưởng đến người khác.
Trường hợp này còn có thể thông qua được.
Nhưng một vị
Bồ Tát lấy việc
độ sanh làm
trách nhiệm của mình, trong quá trình
tu Bồ Tát hạnh cần phải dùng
tâm từ bi làm cơ bản. Nhưng
trái lại sanh tâm
sân
hận đối với
chúng sanh thì chẳng những
trái với bổn nguyện của
Bồ Tát, lại còn
tạo thêm
tội lỗi là làm cho
chúng sanh phải xa rời.
Vì
chúng sanh thấy bạn thường sanh tâm
sân hận
như vậy nên dù có
ý muốn thân cận với bạn, cũng không dám
đến gần. Như vậy làm
sao bạn
cảm hóa được
chúng sanh,
nếu không muốn nói là
trở thành đối lập với
chúng sanh.
Cho nên ở bất cứ
trường hợp nào,
Bồ Tát đều phải
có
lòng từ mẫn, bi nhẫn với tất cả
chúng sanh, không được ôm ấp
tâm niệm bất
nhân, đem sự nóng giận đánh đập
trả thù chúng sanh, đưa đến việc không tròn
trách nhiệm hóa độ chúng sanh của mình.
Sở dĩ Đức Phật dạy
Bồ Tát không được “đem giận
mà trả giận, đem đánh trả đánh”, điểm cốt yếu là không được
trả thù.
Thực hành
được như thế đã là việc khó lắm rồi. Ngài
hoàn toàn không
nhất định bắt bạn
phải dùng đức báo oán.
Có người hỏi đức
Khổng Tử rằng: “Dùng đức báo
oán
cần phải như thế nào?” Đức
Khổng Tử đáp một cách khéo léo rằng: “Như thế
nào gọi là trả đức?”
Tôi (
Pháp Sư) xin nói với các bạn rằng: “Dĩ trực
báo oán, dĩ đức báo đức”. Nói như thế để thấy rõ lối
lập giáo của hai bên Phật
và Nho đều rất gần với
nhân tính,
hoàn toàn không mang
tính chất “kiểu uổng quá
chính” (uốn cái cong mà thành ra quá thẳng). Ý nói
sửa đổi điều
sai lầm, nhưng
lại làm
thái quá khiến cho
mọi người khó
tuân hành.
Kinh Đại
Bát Nhã, quyển hai mươi mốt
thuyết
minh: “Ngay trong lúc cùng với
chúng sanh đấu tranh,
sân hận, mạ nhục,
Bồ Tát
phải
lập tức cải hối rằng: - Ta
cần phải nhẫn
thọ sự dày xéo,
chà đạp,
mắng
nhiếc của
chúng sanh cũng như chiếc cầu và như những người
câm điếc. Tại sao ta
lại dùng lời ác để nói trả lại người? Ta không nên
phá hoại quả
Bồ Đề thậm thâm
này!”
Cũng trong kinh Đại
Bát Nhã, quyển năm trăm hai
mươi
thuyết minh: “Bồ Tát nếu bị người chém chặt thân, tay và
thân hình, cũng
không nên
khởi tâm sân hận, thốt lời thô ác.
Tại sao vậy? Vì
mục đích duy nhất của
Bồ Tát vốn
cầu quả
vô thượng Bồ Đề, để
cứu bạt sự
thống khổ sanh tử cho tất cả
hữu tình,
giúp
chúng sanh được
an lạc, thì làm sao
cho phép Bồ Tát quay lại làm việc ác
đối với chúng sanh?”
Mấy lời khai thị của
Đức Phật ở trong kinh vừa
dẫn trên, có thể
nói thật là
lâm ly, thấm thía suốt tận tủy não.
Vì vậy, mọi
hành giả Bồ Tát đều phải xem trọng!
Nên biết
chúng sanh đến
não loạn bạn bằng bất cứ
cách nào, nếu bạn không sanh tâm
sân hận, thì chẳng những họ không thể nhiễu
loạn bạn được, mà chính
chúng sanh ấy lại bị sự
não loạn làm hại
trở lại.
Ví
như bộ mặt
xấu xí vô cùng, nếu soi vào
gương sáng thì vẻ
xấu xí ở nơi bộ mặt
chứ không hề ở nơi chiếc
gương sáng kia.
Nếu bạn bị
chúng sanh nhiễu loạn mà bạn lại
sân
hận,
quở trách một cách quyết liệt, thì kết quả, lẽ ra
tội ác kẻ ấy phải mang,
nhưng lại thành ra
tội ác của chính bạn. Thật là một điều
hoàn toàn phi lý! Nên
trong
Chứng Đạo Ca của
Vĩnh Gia đại sư có lời khai thị rất hay rằng:
Quán ác ngôn thị
công đức,
Thử tắc thành ngộ
thiện tri thức.
Bất nhân sân báng khởi
oán thân,
Hà biểu
vô sanh từ nhẫn lực?
Dịch:
Quán những lời thô ác, hủy báng mình đều là
công
đức. Vì thế người hủy báng, mạ nhục mình đều là những
thiện tri thức. Không nên
vì sự chê bai, hủy báng mà sanh niệm oán, thân. Nếu
phân biệt kẻ oán với người
thân thì làm sao
biểu lộ vô sanh từ nhẫn lực đối với
chúng sanh được?
Vì
thế sự giận đánh
trả thù là
tuyệt đối không
được. Chẳng những chính mình bị kẻ khác
sân hận, đánh đập, nhưng không được
trả
thù, mà
cha mẹ, anh em, hay
lục thân của mình bị người giết hại cũng không được
báo thù. Hoặc
trường hợp vị quốc chủ vì
nhiệm vụ giữ gìn đất nước,
bảo hộ nhân
dân được
an toàn mà bị
sát hại, bạn là người hành
Bồ Tát đạo, cũng không được
báo thù.
Cha mẹ là người
chúng ta phải tận hiếu,
quốc vương
là đối tượng
chúng ta phải tận trung. Nếu ai
sát hại những người ấy, nói theo
thế tục thì kẻ ấy có
mối thù không đội trời chung với
chúng ta, nên phải
báo
thù mới
hợp lý.
Tục ngữ có câu: “Có cừu mà không trả chẳng phải là người quân
tử”. Nhưng
Phật pháp thì ngược lại,
Đức Phật tuyệt đối ngăn cấm việc
báo
thù.
Ý nghĩa ấy như thế nào?
Vì
thế tục chỉ biết hiện đời.
Trong đời này, oán
là oán, thân là thân.
Phạm vi rất
rõ ràng, không
thể không phân biệt oán và
thân. Cho nên đối với
kẻ thù của
cha mẹ thì không thể đội trời chung, của anh
em không thể chung sống trong một nước, của bạn bè thì không được qua lại với
người thù. Ngược lại,
Phật giáo thì
dung thông cả
ba đời.
“Oán thân đồng nhất thể” do ở
tự tánh rốt ráo
bình đẳng,
không tịch. Vốn đã không
phân biệt oán thân thì làm sao có thể
chấp
nhận việc bạn vì
quyến thuộc này mà giết
quyến thuộc kia? Hơn nữa, nói theo
thường tình thì kẻ
thân thuộc của bạn bị
sát hại đã chết rồi, không thể nào
sống lại được. Nay bạn giết hại
trở lại thân quyến của
kẻ thù để rửa thù thì
thử hỏi bạn
đạt được kết quả
tốt đẹp gì? Hay chỉ làm
gia tăng mối
hận thù giữa
đôi bên, và ngay chính
bản thân bạn cũng không được
lợi ích mảy may nào. Thế
nên
Đức Phật dạy không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh.
Nơi đây để
chứng minh việc đừng dùng oán thù trả
lại oán thù,
chúng tôi xin dẫn một chuyện do chính
kim khẩu của Phật thuật lại
như sau:
Vào thời
quá khứ, có hai vị
quốc vương là vua
Phạm Thí ở nước Đà Xa và vua
Trường Sanh nước
Câu Tát La. Vua Phạm Thí thì binh
hùng tướng mạnh, tài bảo
vô lượng. Còn vua
Trường Sanh thì không bằng lấy một
phần của vua Phạm Thí.
Tổ phụ của hai vua có mối oán thù thâm trọng,
không thể nào cởi mở, vì thế, vua Phạm Thí cử vạn hùng binh chinh phạt để chiếm
đoạt nước
Câu Tát La.
Vua
Trường Sanh bị mất nước, mất ngôi, nên cùng
Hoàng Hậu sang nước
Ba La Nại tỵ nạn. Cả hai
giả dạng làm người
Bà La Môn Loa
Kế (búi tóc xoáy như trôn ốc), xin ở trọ trong nhà một người thợ làm đồ gốm để
nuôi dưỡng đứa con tên
Trường Sanh vương tử.
Thời gian ngắn sau, vua Phạm Thí biết tin và bắt
được
quốc vương cùng hoàng hậu, còn
Trường Sanh vương tử rất may,
trốn thoát
được. Sau khi bắt được vua
Trường Sanh và hoàng hậu, vua Phạm Thí trói hai
người lại, cho gióng chiêng, đánh trống,
tuyên bố xử tử. Toàn dân nước Già Xa
đua nhau đi xem. Trong biển người ấy có
Trường Sanh vương tử
giả dạng người
hàn
vi rách rưới,
theo sau cha mẹ mình.
Vương tử thấy cảnh này, lòng đau như cắt, nhưng
không dám khóc than, bày tỏ với ai, chỉ ôm lòng thù hận,
ngậm hờn nuốt lệ.
Lúc
ấy, vua
Trường Sanh ngó ngoái lại, thấy con mình, liền cao giọng nói
rằng:
Oán thù bất luận trọng hay khinh,
Quyết định không nên
trả thù lại.
Nếu đem oán thù trả oán thù,
Oán thù không sao
chấm dứt được.
Điều
duy nhất là đừng oán thù,
Thì oán thù kia
tự nhiên tiêu diệt.
Vua nói mấy lời kệ trên đến hai, ba lần.
Mọi
người cho rằng vua vì mất ngôi, mất nước, lại sắp bị tử hình nên
loạn tâm và
điên cuồng la nói như vậy.
Sau đó, vua Phạm Thí hạ lệnh đem
Trường Sanh
quốc vương cùng hoàng hậu ra
pháp trường xử trảm, lại phanh thây ra làm bảy
phần, đem treo trên đầu cây nêu nhọn.
Trường Sanh vương tử thấy
cảnh tượng này
vô cùng
đau đớn,
nuốt lệ ngậm hờn, tự nghĩ rằng: “Đây thật là cảnh
đại địa ngục trần
gian mà
tội nhân chính là
cha mẹ của ta”. Sau đó, vương tử phải yên lặng ôm hận
trở về.
Thời gian sau, Ngài
giả dạng làm một người
Ma Nạp (
thiếu niên tịnh hạnh
nhân) tại thành
Ba La Nại,
chuyên cần học kỹ thuật và tất cả các sách vở
thế
gian như xem
tinh tú, coi tướng số,
âm nhạc, hội họa v.v...
không môn nào chẳng
tinh thông.
Lúc ấy, vua Phạm Thí có một vị điều tượng sư rất
tài giỏi,
Trường Sanh vương tử đến nơi ấy xin học
phương pháp điều tượng. Ban
ngày vương tử lo học tập và hầu thầy, đem đến, gẩy đàn cầm ca hát,
âm thanh rất
thanh tao,
êm ái. Tiếng đàn ca vang đến trong cung. Vua Phạm Thí
nghe được liền
hỏi quan
tả hữu rằng: - Tiếng đàn ca của ai ấy vậy?
Các quan tâu rằng: - Đấy là tiếng đàn ca của gã
Ma Nạp ở nhà của điều tượng sư.
Quốc vương cho mời gã
Ma Nạp đến.
Trường Sanh Ma
Nạp vâng lệnh vua gẩy đàn, ca hát.
Âm thanh vi diệu,
thanh tao, vua nghe
vô
cùng hoan hỷ, liền lưu
Ma Nạp ở lại trong cung.
Đặc biệt là ở cung Hoàng Hậu. Ở
đấy chỉ có ba người: vua Phạm Thí, Hoàng Hậu cùng với Trường
Ma Nạp,
ngoài ra
không còn một ai dám vào nơi ấy.
Thời gian sau, Hoàng Hậu mất viên ngọc
Ma Ni bảo
châu, vua gọi
Ma Nạp đến hỏi: - Hoàng hậu của Trẫm mất
Ma Ni bảo châu, khanh có
lấy không?
Ma Nạp tự nghĩ: - Cung điện này không ai ra vào,
chỉ có hoàng thượng, hoàng hậu và ta. Nếu nói không lấy e bị vua
tra khảo không
dễ gì chịu nổi.
Liền tâu rằng: - Chính hạ thần lấy.
Vua hỏi: - Khanh có cùng ai làm việc đó
không?
Ma Nạp tâu: - Hạ thần cùng với
Thái Tử.
Vua hỏi: - Cùng với ai nữa?
Ma Nạp đáp: - Cùng với vị đại
thần trí huệ bực
nhứt.
Vua hỏi: - Cùng ai nữa?
Ma Nạp đáp: - Cùng với đệ
nhất đại trưởng giả
trong nước của chúa thượng.
Vua hỏi: - Cùng với ai nữa?
Ma Nạp đáp: - Cùng với đệ nhất mỹ nữ.
Vua hạ lệnh bắt cả năm người giam vào ngục tức
khắc. Trong ngục,
Thái Tử hỏi
Ma Nạp rằng: “Anh thật biết ta không lấy
Ma Ni
bảo châu, nhưng sao lại dối khai rằng ta lấy ngọc?”
Ma Nạp đáp: - Đông Cung
thật không lấy, tôi cũng
thật không lấy. Đông Cung là
thái tử đệ nhất, là người
thương mến,
quý trọng
nhất của
đại vương. Tôi chắc
đại vương không vì mất viên ngọc mà
nhẫn tâm giết
hại Đông Cung, nên tôi khai thế thôi.
Vị đại thần hỏi rằng: “Anh thật biết ta không
lấy ngọc
Ma Ni, tại sao khai gian là ta lấy?”
Ma Nạp đáp: - Thượng quan
thật không lấy, tôi
cũng không lấy. Nhưng ngài là đại thần có
trí huệ bậc nhất của hoàng thượng,
ngài có thể tìm được ngọc dễ dàng nên tôi khai như vậy thôi.
Đại phú trưởng giả hỏi: - Anh thật biết tôi
không lấy ngọc, tại sao lại nói tôi lấy?
Ma Nạp đáp rằng: - Ngài
thực không lấy, tôi cũng
không lấy. Nhưng ngài là vị
đại phú trưởng giả ở trong nước, tài bảo
vô lượng.
Nếu hoàng thượng
cần dùng ma ni bảo châu, ngài có thể tìm dâng một cách dễ
dàng, nên tôi khai vậy thôi!
Đệ nhất mỹ nữ hỏi: - Anh biết tôi
thực không lấy
ngọc, nhưng sao lại khai dối là tôi lấy?
Ma Nạp đáp rằng: - Cô
thực không lấy, tôi
thực
không lấy. Vì cô là đệ nhất mỹ nhân trong nước, biết bao nhiêu người
để ý đến
cô, nhưng chưa người nào hỏi cưới được cô. Tôi chắc các vương tôn công tử vì
yêu thương cô nên sẽ tìm được ngọc dễ dàng,
vì vậy mà tôi khai như vậy.
Bấy giờ, có bọn giặc ở nước
Ba La Nại,
nghe được
tin ấy
lập tức đến chốn lao ngục hỏi
Ma Nạp rằng: - Nghe nói hoàng hậu bị mất
bảo châu, có thực hay không?
Ma Nạp đáp: Quả thực có!
Bọn giặc hỏi: Theo anh thì có ai vào trong cung
không?
Ma Nạp đáp: - Không có ai vào hết, trong ấy chỉ
có ba người: vua, hoàng hậu và tôi.
Bọn giặc hỏi tiếp: - Có ai thường qua lại trong
ấy không?
Ma Nạp đáp: - Có con
di hầu thường qua lại trong
ấy.
Bọn giặc nói: - Ma Nạp! Anh hãy yên tâm, viên
ngọc đó
chúng tôi có thể tìm được.
Bọn giặc liền vào cung tâu với vua,
yêu cầu vua
truyền lệnh cho tất cả thể nữ trong cung đem tất cả trang sức phẩm như chuỗi
anh lạc, vòng vàng... trang điểm vào các
di hầu trong chánh cung (cung của
vua), đoạn dẫn chúng vào trong tư cung của hoàng hậu. Con
di hầu ở tư cung thấy
các
di hầu trong chánh cung đều đeo tất cả đồ trang sức, cô ta liền lấy
ma ni
bảo châu đã đánh cắp đeo vào người để trang điểm. Bọn giặc bao vây tứ phía, bắt
di hầu và lấy viên ngọc đem dâng cho vua.
Vua được ngọc liền hạ lệnh triệu
Ma Nạp vào
yết
kiến và hỏi rằng: “Vì sao khanh không lấy ngọc mà tự nhận là có lấy? Lại do cớ
gì mà khai cho
Thái Tử và những người khác?”
Ma Nạp tâu cho vua nghe các
lý do trên. Nghe
xong, vua khen ngợi rằng: “Thật hiếm có!
Ma Nạp có
đại trí huệ, trên
thế gian
này khó có hai người”. Liền trọng dụng
Ma Nạp phong cho làm
vị quan cao quý
nhất trong quần thần.
Về sau, một hôm vua cùng
Ma Nạp đi săn bắn và
du
ngoạn trong rừng. Khi vào rừng, ngự lâm quân của vua vì ham
săn đuổi thú rừng
nên tản mát khắp nơi.
Lúc ấy, nhằm tiết trời
nóng bức,
Ma Nạp liền đẩy xe vua
đến chỗ vắng nghỉ ngơi. Vua xuống xe, vào trong bóng mát, gối đầu lên gối
Ma
Nạp mà ngủ.
Lúc ấy,
Ma Nạp tự nghĩ: “Vị
quốc vương này là kẻ
cừu thù của
tổ phụ ta, phá hết giang sơn, đất nước ta, cướp đoạt quân binh cùng
tài bảo, kho tàng của
tổ phụ ta. Lại còn giết
cha mẹ ta một cách tàn nhẫn,
đoạn
tuyệt vương chủng nước
Câu Tát La. Oán thù như vậy, giờ phút này
cần phải giết
để trả thù”.
Nghĩ suy như vậy,
Ma Nạp rút kiếm ra, định cắt
đầu vua Phạm Thí, nhưng bỗng nhớ lại lời di chúc của phụ hoàng rằng:
Oán thù bất luận trọng hay khinh,
Quyết định không nên
trả thù lại.
Nếu đem oán thù trả oán thù.
Oán thù không sao
chấm dứt được.
Điều
duy nhất là đừng oán thù,
Thì oán thù kia
tự nhiên tiêu diệt.
Nhớ như vậy,
Ma Nạp liền trao kiếm vào vỏ, khi
ấy, vua Phạm Thí
thức dậy, khẽ bảo
Ma Nạp rằng: “Khanh! Trẫm vừa
nằm mộng thấy
Trường Sanh vương tử sắp cắt đầu trẫm”
Ma Nạp đáp: “Chỗ
thanh vắng này chỉ có mình chúa
thượng và hạ thần,
Trường Sanh vương tử nào lọt vào đây? Bệ hạ cứ yên tâm ngơi
nghỉ, vì chỗ này
thanh vắng có nhiều
thần linh, vả lại bệ hạ
mệt mỏi nên sanh
mộng mị thế thôi!”
Vua Phạm Thí
nghe lời Ma Nạp tiếp tục nằm ngủ.
Ma Nạp lại rút kiếm sắp cắt đầu vua, nhưng lại nhớ đến di chúc của phụ hoàng,
bèn lại tra kiếm vào vỏ. Như thế, đến hai ba lần, vua Phạm Thí cũng
nằm mộng
hai ba lần, nên
kinh hãi,
tỉnh dậy, hỏi
lý do với Trường
Ma Nạp.
Bấy giờ
Ma Nạp tự nghĩ: “Nếu giết vua
trả thù
thì
trái với di chúc của phụ hoàng, mà
nếu không giết thì trong tâm ôm ấp mãi
mối
oán hận. Chi bằng
cứ sự thật nói ra, nếu vua Phạm Thí để sống cũng tốt, mà
giết đi thì cũng tốt. Sống như
vậy thì sống làm chi cho khổ tâm”.
Suy nghĩ như
vậy,
Ma Nạp tâu hết
sự thật cho vua nghe,
cuối cùng kết luận: “Vì giữ lời di
chúc của phụ hoàng nên tôi không dám giết ngài thế thôi!”
Vua Phạm Thí nghe xong, trong tâm
cảm động không
sao tả xiết, hai dòng lệ tuôn trào, ôm mặt khóc nói không ra lời. Hồi lâu vua
mới từ từ bảo: “Trường Sanh
đại vương là một
thánh quân, một nhân vật
phi phàm.
Trẫm dù mang lớp người, nhưng thật
bạo ác hơn loài
thú dữ...”
Nói xong vua lên xe cùng
Trường Sanh vương tử
trở về hoàng cung. Sau đó vua liền trả lại hết chho
Trường Sanh Vương Tử giang
sơn nước
Câu Tát La, bốn bộ binh chủng,
nhân dân cùng tất cả tài bảo kho tàng.
Lại sắm một cỗ xe cực kỳ
trang nghiêm, bảo
công chúa phục sức theo lễ triều của
hoàng hậu, rồi đưa cả vương tử và
công chúa về nước
Câu Tát La.
Thuật chuyện trên xong,
Đức Phật bảo quý tỳ kheo
rằng: “Này quý tỳ kheo! Các ông nên biết Trường
Ma Nạp rút kiếm ra nhưng không
trả thù mà lại cùng nhau
hòa hợp trở lại như cha với con. Các ông là người
xuất
gia hành đạo,
đồng học một thầy như nước với sữa, ở trong
Phật pháp các ông
phải cùng nhau
hòa thuận, chuyên lo
tu học để được nhiều
lợi ích và làm cho
chánh pháp của
Như Lai được
cửu trụ trên
thế gian.
Thôi đi! Thôi đi! Này quý
tỳ kheo, các ông đừng
tranh chấp, gây gổ
với nhau nữa, đừng
mắng nhiếc nhau, hủy báng,
tìm tòi chỗ
hay dở của nhau nữa. Các ông
cần phải hòa hợp đừng
tranh chấp nhau. Các ông
đồng học một thầy, như nước với sữa
hòa hợp.
Cần phải cùng nhau ở trong
Phật
pháp an vui, chuyên lo
tu học để được nhiều
lợi ích và làm cho
Phật pháp được
cửu trụ trên thế gian”.
Đức Thế Tôn nói như vậy hai ba lần.
(
Câu chuyện này ở trong
Luật Tứ Phần, quyển bốn
mươi ba. Nhân khi
đức Phật ngự tại nước Câu Diệm Di, khi ấy chư
tỳ kheo tại đó
xung đột nhau về việc
phạm giới. Giữa hai bên
tỳ kheo, một bên
phanh phui tội
lỗi và bên bị
phanh phui tội lỗi đang gây gổ,
mắng nhiếc,
phỉ báng,
tìm kiếm
lỗi lầm,
nói xấu lẫn nhau. Các
tỳ kheo khác
nghe được việc trên, kính bạch lên
Phật. Ngài bèn nhóm chư
tỳ kheo lại để khuyên giải, thuật lại mẫu chuyện trên.
Cuối cùng Phật đã dạy khuyên, nhắn nhủ những lời trên).
Do đó, chủ trương của
Phật giáo là
tuyệt đối
không được đem oán thù trả lại oán thù. Nếu như
mắc nợ mạng mà dùng mạng để trả
lại thì
vô cùng ngược với chỉ thú
từ bi của
Phật giáo.
Ở đây có người hỏi rằng:
Quân vương,
phụ mẫu là đại
luân thường của
con
người trên
thế gian.
Phạm Võng Bồ Tát giới là
Kim Cương Quang Minh Bửu Giới,
hàng
quốc vương,
thái tử, đại thần v.v... đều bẩm thọ.
Trường hợp những
thù oán
nhỏ mọn bảo đừng nên trả thì có thể
chấp nhận, nhưng cừu thù của
quốc vương,
phụ mẫu cũng không báo oán thì thử hỏi tâm
chúng ta làm sao
an nhẫn được? Nếu
như
thực hành theo như thế thì để
Phật giáo lưu hành trên
thế gian này không
khác gì
tuyên bố bãi bỏ nhân đạo? Và
thực hành đúng theo
giới luật của Phật
chẳng khác gì
diệt trừ hiếu trung? Như thế,
nhân gian này sẽ
trở thành một thế
giới
cầm thú.
Trật tự xã hội sẽ bị phá vỡ thì thử hỏi
giới luật của
Phật pháp
lợi ích ở chỗ nào? Nếu đã như
vậy thì cần gì phải phụng hành?
Ý nghĩ ấy thật
sai lầm,
tuyệt đối sai lầm! Bạn
nên biết rằng chư
Bồ Tát hóa độ chúng sanh trên
thế gian,
mục đích duy nhất là
muốn cho mỗi
chúng sanh đều
thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Lại nữa,
Bồ Tát xem mỗi một
chúng sanh trong
lục
đạo đều là
cha mẹ của chính mình thì làm sao chấp nhập
sự kiện giết hại một
sanh mạng để đền một sanh mạng khiến cho tất cả
chúng sanh đời đời,
kiếp kiếp
giết hại lẫn nhau không dứt. Do đó,
vĩnh viễn sanh chúng phải bị
trầm luân
trong biển khổ
sanh tử.
Hơn nữa, đối tượng mà bạn muốn giết kia, nếu
nhìn vào
thực tế ở kiếp
hiện tại thì là
kẻ thù, nhưng nếu xét qua thời
quá khứ
thì kẻ ấy biết đâu là
cha mẹ đời trước của bạn. Nếu
hiện tại giết sanh mạng để
báo thù sanh mạng, chẳng khác nào giết hại
cha mẹ nhiều đời, nhiều kiếp của bạn
để
báo thù cho
cha mẹ trong hiện đời này. Như thế thì đâu còn hợp với lý hiếu
đạo.
Cho nên kinh văn dạy tiếp: “Đó là việc không
thuận với hiếu đạo”. Trước đã giảng qua: “Hiếu thuận là pháp chí đạo”.
Hiếu gọi là Giới, cũng gọi là cấm ngăn mọi
vi
phạm; nghĩa là lấy giới làm hiếu mới có thể gọi là pháp chí đạo. Đã thế thì làm
sao có thể
cho phép bạn đi
sát hại sanh mạng? Do đó, hiếu đạo trong
Phật pháp
và hiếu
đạo thông thường của
thế tục, chỉ thú của hai bên thực sự khác
xa
nhau.
Theo quan niệm lễ giáo thế tục, cừu thù của
quốc
vương,
cha mẹ mà không trả là bất hiếu. Nhưng nói theo
Phật pháp thì
báo thù
cho
quốc vương,
phụ mẫu không phải là hiếu đạo.
Tại sao vậy?
Vì
lễ giáo của
thế gian chỉ chú trọng kiếp
hiện
tại, không nói đến
nhân quả,
nghiệp báo của đời tương lai. Còn
Phật pháp nhận
thực rằng nếu bạn
báo thù chỉ gây
tai hại, vì làm cho
quốc vương,
phụ mẫu vĩnh
viễn bị
trầm luân, không được
thoát ly khỏi
vòng sanh tử trong
tam giới. Như
vậy không thể gọi là hiếu đạo được.
Như trên nói, chẳng những không được đem giận,
đánh
trả thù giận đánh, lại cũng không được nuôi chứa tôi tớ rồi đánh đập,
mắng
nhiếc chúng.
Có người cho rằng
Đức Phật cho phép chứa nuôi
tôi tớ để giúp việc và
sai khiến. Điều đó
hoàn toàn không đúng. Tại sao
vậy?
Phải biết rằng hàng
Phật tử xuất gia, dù là
Thanh Văn hay
Bồ Tát, tất cả việc sinh sống và nhu dụng của chính mình, đều
phải nhờ sự
cung cấp của
tín thí, thì thử hỏi những phí tổn để chứa nuôi tôi tớ
đâu phải của chính mình xuất ra. Thế mà hiện nay có rất nhiều
chúng tăng xuất
gia vừa đề cập đến việc gì liền đem việc
giàu sang ra khoe khoang! Thực là
người không ra gì!
Bồ Tát xuất gia không được nuôi chứa tôi tớ.
Riêng hàng
Bồ Tát tại gia,
Đức Phật không
hoàn
toàn ngăn cấm, nhưng không được đánh đập, nhục mạ một cách
phi lý người mình
nuôi dưỡng, để đến nỗi “mỗi ngày
tam nghiệp tạo
vô lượng tội, nhất là khẩu
nghiệp”. Huống gì lại cố đi làm tội thất nghịch! Điều này
dĩ nhiên nằm trong
phạm vi nghiêm cấm một cách
triệt để.
Trong kinh văn nói:
- Đánh đập
thuộc về nghiệp.
- Nói mạ nhục thuộc về
khẩu nghiệp.
- Nổi sân nộ thuộc về
ý nghiệp.
Thuở xưa, chủ nhân đối với tôi tớ
hết sức bạo
ngược. Họ xem tôi tớ không phải là
con người. Khi nào muốn đánh cứ đánh, muốn
mắng cứ mắng, muốn sân cứ sân. Không có một chút
tình thương. Cho nên cuộc sống
của tôi tớ
ngày xưa là cuộc sống không bằng thân trâu ngựa.
Đức Phật biết rõ
tội ác này dù không ngăn cấm
Bồ
Tát tại gia chứa nuôi tôi tớ, nhưng
tuyệt đối ngăn cấm sự đánh đạp, mạ nhục,
sân nộ, để
tránh khỏi mỗi ngày
tam nghiệp tạo
vô lượng tội ác.
Theo trong kinh Phật dạy thì trước đã nói cả
ba
nghiệp, tại sao lại nói
khẩu nghiệp tạo
vô lượng tội?
Có nơi
giải thích rằng: người đời đối với tôi
trai, tớ gái
trước tiên nội tâm sanh
sân hận, đưa đến sự đánh đập. Nhưng trước
khi đánh đập thì lại mạ nhục. Trong lúc mạ nhục, mỗi lời, mỗi câu đều thuộc về
ác khẩu.Thế nên
tội lỗi không thể kể xiết.
Cho nên
Đức Phật nhấn mạnh: “Nhất là khẩu
nghiệp” (ý nói
tội lỗi do
khẩu nghiệp tạo
vô lượng,
vô biên).
Vì
duyên cớ báo thù cho
cha mẹ mà giết hại người
khác, đó không phải là giết hại người không quan hệ với mình mà chính là giết
hại
cha mẹ mình vậy. Vì người
bị giết hại kia,
trong đời quá khứ cũng từng là
cha mẹ mình. Nay bạn vì
báo thù cho
cha mẹ hiện đời mà giết người ấy thì có
phải đã tạo thành tội thất nghịch, không thuận với hiếu đạo hay không?
Vì thế, làm một vị
Bồ Tát phải luôn nhắm vào
tâm
từ bi,
ý nghiệp không được có
tư tưởng đem giận trả giận.
Khẩu nghiệp không
được
mắng nhiếc trả
mắng nhiếc.
Thân nghiệp không được đánh đập trả đánh
đập.
Tại sao ở đây không nói rằng: không được đem
giết trả giết?
Vì khi nhục thân của bạn đã bị người giết rồi
thì đâu còn cái gì
trong đời này để có thể đi
báo thù nên không nói: “Không
được đem giết trả giết”. Nhưng không phải là nói kiếp
lai sanh không có sự
trả
thù, giết hại
thân mạng vì đó là sự oan oan tương báo. Nhưng đó là việc thuộc
kiếp
lai sinh, không phải chuyện
hiện tại.
Cừu thù không được trả, chủ yếu là nói về giới
Bồ Tát xuất gia. Còn
Bồ Tát tại gia trong
trường hợp dụng pháp
quốc gia cũng có
thể “dĩ trực báo oán”. Nếu
Bồ Tát xuất gia không có
lòng từ bi, cho rằng mình
nên giận, đánh,
trả thù cho đến vì hàng
lục thân mà cố làm việc giận đánh,
trả
thù,
Phật tử này phạm
khinh cấu tội.
Tại sao phải
nghiêm cấm hàng
Bồ Tát xuất gia
thật
nghiêm khắc như thế?
Vì đi
xuất gia là đã
buông bỏ tất cả,
cần phải
thực hành sự
oán thân bình đẳng,
nhân ngã đều vọng. Không nên ôm ấp
kiến chấp
ngã nhân như người
thế tục và đi
tìm kiếm kẻ oán thù mà giết hại lẫn
nhau.
Cho nên
Bồ Tát xuất gia phải từng giờ, từng khắc
hành pháp quán tưởng “oán thân bình đẳng”. Nên bất luận cừu thù,
oán hận lớn
hay nhỏ, cũng không luận quan hệ thân hay sơ, tất cả đều không được
báo thù.
Nếu
thực hiện được sự không
báo thù thì
tự nhiên cởi mở được dây oan kết,
vĩnh
viễn không còn chuyện cừu thù
đối đầu với nhau nữa!
Trái lại, nếu cứ oán thù giết hại lẫn nhau thì
vĩnh viễn không bao giờ cấm dứt oán thù.
Giới “giận đánh trả lại làm
chướng ngại nhẫn
nhục độ” trong
Du Già Giới Bổn thuyết minh và giới “giận đánh trả thù” trong
kinh này có chỗ tương đồng.
Nếu
Bồ Tát an trụ
tịnh giới luật nghi của
Bồ
Tát, khi có
hữu tình đến dùng lời thô ác, mạ nhục thay vì cần
nhẫn nhục lại
không nhẫn nhục, đi làm việc
báo thù. Bảo rằng: “Mày mạ nhục tao như thế ấy,
tao cũng
sân hận với mày như vậy”, đây cũng
tuyệt đối là việc không đúng.
Hoặc có người dùng tay chân đấm đá
Bồ Tát, đáng
lý phải nhẫn thọ mà
không nhẫn thọ, lại
báo thù, nói rằng: “Mày đánh tao một
cú, tao cũng đạp mầy một đạp” cũng là việc không thể được.
Lại nữa, nếu có người
cố tình đến chọc ghẹo,
Bồ
Tát cần nhẫn thọ mà
không nhẫn thọ, lại trả đũa nói rằng: “Mày chọc ghẹo tao
thế ấy, tao cũng chọc ghẹo mày thế này” thì cũng không đúng. Nên phán xét những
hành động như vậy là có chỗ trái
phạm giới Bồ Tát, và thuộc ề tội
nhiễm ô trái
phạm.
Trong kinh Hải Ý,
Đức Phật dạy Hải Ý rằng: “Nếu
có người dùng
ác tâm đến
sân hận, mạ nhục ông, ông phải
lập tức nghĩ rằng: ‘Kẻ
này thực là quá
biếng nhác,
xa lìa pháp bạch tịnh. Ta hôm nay
phát tâm tinh
tấn,
tu tập vun trồng các
thiện căn để cầu quả
vô thượng Bồ Đề, đừng sanh tâm
nhàm chán cho là đã đầy đủ”.
Lại
phát nguyện: “Nguyện cho người này
thành
Phật trước mình, ngồi
đạo tràng chuyển pháp luân, độ
chúng sanh. Ta sẽ thành
vô
thượng chánh giác rốt sau”.
Lại
cần phải y theo pháp này mà
quan sát như thế
nào là sân? Thế nào là không phải sân?
Tìm hiểu,
tư duy hai thứ ấy đều không có thực.
Lại nữa sân cùng chẳng phải sân, hoặc mình, hoặc người, pháp sân cùng người
sân, đều không thực có. Cái không thực này cũng phải
xa lìa. đừng
cố chấp. Ấy
gọi là Nhẫn.
Một
hành giả Bồ Tát nếu có thể tư duy,
quán sát
như
vậy thì còn có cừu thù,
oán hận nào có
thể hiện hữu được? Đó là pháp quán
oán thân bình đẳng.
Oán hận, cừu thù đã không thực có thì còn chi mà phải trả
thù?
Giới này
Đại Thừa,
Tiểu Thừa đồng cấm:
thất
chúng Phật tử đều phải
tuân hành, nên mỗi
Phật tử đều phải chú ý.