KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.23. KIÊU MẠN TỊCH THUYẾT GIỚI
(kiêu mạn thuyết
giới, không đúng)
Kinh văn:
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử, Phật diệt độ hậu...” cho đến câu “...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu Phật tử
sau khi Phật nhập diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ Tát, thời đối với truóc
tượng Phật và tượng Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới. Nên ở trước tượng Phật và
tượng Bồ Tát sám hối trong bảy ngày, hễ được thấy hảo tướng là đắc giới. Như
chưa thấy hảo tướng thời phải sám hối mười bốn ngày, hai mươi bốn ngày, hay đến
cả năm, cầu được thấy hảo tướng.
Khi được thấy
hảo tướng rồi, thì được đối trước tượng Phật, Bồ Tát mà thọ giới. Như chưa được
thấy hảo tướng thì dầu có đối trước tượng Phật thọ giới, vẫn không được gọi là
đắc giới.
Nếu đối trước vị
Pháp Sư đã thọ giới Bồ Tát mà thọ giới thì không cần thấy hảo tướng. Tại sao
vậy?
Vì vị Pháp Sư ấy
là chư sư truyền giới cho nhau, nên không cần thấy hảo tướng. Hễ đối trước vị
Pháp Sư ấy mà thọ giới liền đắc giới. Do vì hết lòng kính trọng nên đắc giới.
Nếu ở trong vòng nghìn dặm, mà không tìm được vị Pháp Sư truyền giới, thời Phật
tử được phép đối trước tượng Phật và Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới Bồ Tát, nhưng
cần phải thấy hảo tướng.
Nếu các vị Pháp
Sư ỷ mình thông kinh luật cùng giới pháp Đại Thừa, kết giao với các nhà quyền
quý, khi có hàng tân học Bồ Tát đến cầu học nghĩa kinh luật, lại giận ghét, hay
khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ bảo, vị này phạm khinh cấu tội.
3. Lời giảng:
Giới trước
nói về lỗi tự ỷ mình là người trí thức, thông minh mà sanh tâm đại kiêu mạn,
không chịu cầu học chánh pháp với người thông hiểu Phật pháp.
Giới này nói về
tinh thần tự thị, tự ỷ vào học lực của mình bên trong. Bên ngoài thì nương cậy,
kết giao với người quyền quý mà sanh tâm đại kiêu mạn, không chịu vì những
người đến cầu pháp trả lời những câu hỏi theo đúng như trong Phật pháp đã
dạy.
Một vị Bồ Tát
chân chính, cần phải thực hành hai điều kiện:
- Cầu học chánh
pháp không được giải đãi.
- Tự mình biết
chánh pháp, nên vì người giảng giải, không lẫn tiếc. Không nên có thái độ không
chịu cầu học khi có người thuyết pháp, hoặc tự mình biết chánh pháp mà không
chịu giảng nói khi có người đến cầu học.
Có một lối giải
thích khác rằng: Giới trước nhấn mạnh về tội lỗi thiếu kính trọng vị Pháp Sư
học pháp trước mình. Giới này nhấn mạnh về tội khinh mạn đối với hàng tân học
Bồ Tát.
Trong kinh, Đức
Phật dạy chúng ta: “Phàm người Phật tử đối với các hành giả chưa học Phật pháp,
không nên có tâm xem thường. Đối với các hành giả đã học Phật pháp, phải hết
lòng cung kính như kính Phật, không được xem rẻ và khinh mạn. Đặc biệt là đối
với hàng tân học Bồ Tát, nếu không khéo léo dẫn dắt và truyền dạy sẽ làm cho sự
trụ trì của Phật pháp không có người hậu kế. Do đó, chánh pháp của Như Lai sẽ
mau bị hoại diệt, tội lỗi ấy to lớn biết dường nào?!”
Xem thường hàng
tân học Bồ Tát vì sao là một tội bị xem là rất nghiêm trọng như vậy?
Nên biết khi
phát tâm làm một vị Bồ Tát thì độ sanh chính là nhiệm vụ duy nhất của mình.
Chẳng những trường hợp khi có người theo cầu học đạo, Bồ Tát phải tận tâm dạy
bảo, dẫn dắt cho người ấy, mà khi không có ai theo học đạo, Bồ Tát còn phải tìm
mọi biện pháp gần gũi để khuyến hóa chúng sanh phát tâm quảng đại thọ Bồ Tát
giới.
Vì vậy, Bồ Tát
chẳng những phải thực hành như vậy ở thế gian, mà dù có phải vào trong các khổ
thú (tam ác đạo) để dạy bảo, dẫn dắt chúng sanh, khiến chúng sanh phát đại đạo
tâm và thọ Bồ Tát giới, cũng vẫn phải thực hành, không có một niệm sợ
khổ.
Vì thế, kinh Anh
Lạc có dạy: “Nếu người nào giáo hóa được một người phát tâm quảng đại thọ Bồ
Tát giới. Công đức ấy nếu đem so sánh với công đức của người kiến tạo tháp Phật
khắp tam thiên đại thiên thế giới thì công đức giáo hóa này thù thắng
hơn”.
Đức Phật đại từ
bi khuyến khích chúng ta đi giáo hóa chúng sanh phát tâm quảng đại một cách ân
cần như thế, như vậy hành giả Bồ Tát làm sao lại không tôn trọng lời giáo huấn
của Đức Phật?
Trong kinh Hoa
Nghiêm nói một cách triệt để hơn: “Vì giáo hóa một chúng sanh mà tự mình phải ở
trong A Tỳ địa ngục, bị lửa dữ thiêu đốt mãnh liệt, và dù cho có phải trải qua
thời gian lâu xa vô lượng kiếp chịu khổ như thế, Bồ Tát chẳng những không buông
bỏ sự cứu độ chúng sanh, nội tâm thanh tịnh không thối chuyển mà lại còn tinh
tấn làm việc độ sanh này như đang ở cảnh giới an lạc tối thắng!”
Độ sanh cần phải
có tinh thần đại vô úy dõng mãnh đầy đủ như vậy, nên khi hàng tân học Bồ Tát từ
xa đến nơi bạn để cầu học chánh pháp Như Lai, không thể nào cho phép bạn không
tận tâm giải đáp những chỗ nghi vấn của người.
Thông đạt kinh
luật Đại Thừa mà không chịu vì hàng tân học giảng nói thì phạm ba điều lỗi sau
đây:
- Tăng trưởng
tội ác cho chính mình.
- Trái với thiện
hạnh của chính mình.
- Mất số chúng
sanh mà mình có nhiệm vụ giáo hóa.
Những chúng sanh
có căn cơ giáo hóa đã bị mất, tức là trái với Nhiếp Chúng Sanh Giới. Trái với
thiện hạnh tức là trái với Nhiếp Thiện Pháp Giới. Tăng trưởng tội ác tức là
trái với Nhiếp Luật Nghi Giới. Tam Tụ Tịnh Giới như thế đều trái phạm thì còn
tư cách chi để gọi là Bồ Tát?
Vì thế, hàng tân
học Bồ Tát sau khi thọ giới pháp và từ phương xa đến theo bạn học kinh luật,
bạn phải đem hết chỗ hiểu biết của mình để giáo hóa hàng tân học ấy. Phải làm
thế nào cho hàng tân học ấy hiểu biết rành rẽ nghĩa lý trong kinh luật để theo
đúng pháp mà thọ trì. Nếu không thực hành đúng như vậy mà trong lúc giảng nói
kinh luật lại làm cho ý nghĩa bị thiếu mất, không rõ ràng, hoặc giảng nói pháp
tướng một cách điên đảo thì tội lỗi ấy to lớn vô cùng!
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: “Nếu một Phật tử đã thọ giới Bồ Tát rồi, mà biết có một Phật tử
khác ở vào thời sau khi Phật nhập diệt, có tâm tốt muốn thọ giới Bồ Tát, thời
phải hướng dẫn người ấy đối trước tượng Phật cùng tượng Bồ Tát mà tự nguyện thọ
giới”.
Bất luận một vị
Phật nào xuất hiện trên thế gian này để hóa độ chúng sanh, cuối cùng, sau một
thời gian đều phải trở vào Niết Bàn, tuyệt đối không có một Đức Phật nào an trụ
vĩnh viễn trên thế gian.
Sự xuất hiện và
nhập diệt của chư Phật đều vì lợi ích cho chúng sanh. Vì vậy, khi ở thế gian,
có những chúng sanh cần phải có Phật xuất hiện cứu độ, thì Phật vì đại nhân
duyên ấy mà xuất hiện nơi đời. Lúc những chúng sanh hữu duyên trên thế gian này
đã được Phật cứu độ hết rồi, thì Phật lại do nhân duyên ấy mà thị hiện diệt
độ.
Cho nên vấn đề
Đức Phật trụ thế hay không, điều ấy không phải ở nơi bản thân chư Phật, mà là ở
nơi tất cả chúng sanh có thể độ được hay không?
Trường hợp đức
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn xuất hiện trên thế gian, khi giáo hóa những
chúng sanh hữu duyên đã xong thì ngài vào cảnh Niết Bàn, nguyên nhân ấy chính
là ở điểm này.
Khi Đức Phật còn
trụ thế, vấn đề thọ giới của hành giả Thanh Văn, dĩ nhiên phải tôn Phật làm
thầy. Việc thọ giới của hành giả Đại Thừa cũng như vậy, hoàn toàn không cho
phép việc tự thệ thọ giới.
Lúc thọ giới
phải ở nơi nào mà tự nguyện thọ giới?
Đương nhiên là
phải ở trước hình tượng Phật và Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới. Sau khi Phật nhập
diệt, thân kim sắc của Phật chúng ta không thể nào thấy được. Nhưng may mắn là
vẫn còn những tượng Phật đắp bằng đất, điêu khắc bằng cây, thêu vẽ trên lụa và
giấy, có thể dùng làm đối tượng cho chúng ta lễ bái.
Vì thế, nếu bạn
hết lòng cung kính đối với tượng Phật, như cung kính Đức Phật thật, thì phước
đức của bạn thu hoạch được tự nhiên là rất lớn. Nghĩa là đồng nhau, cho nên
kinh dạy: “Kính tượng như chân Phật, đắc phước diệc phục nhiên” (Cung kính
tượng Phật như Phật thiệt, phước đức cả hai đều như nhau).
Cho nên người
phát tâm thọ Bồ Tát giới, sau khi Phật nhập diệt, có thể đối trước tượng Phật
tự phát nguyện thọ giới.
Kinh văn dùng từ
“tâm tốt” là có ý nói tâm gốt thọ giới Bồ Tát. Nói rõ hơn là chỉ cho tâm đại Bồ
Đề, thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sanh, cũng có thể nói rõ là tâm cầu giới
chân thành khẩn thiết.
Tâm chẳng những
thuận với chân lý của các pháp, mà còn khế hợp với tín tâm thanh tịnh thuần
khiết không tỳ vết. Đây chính là pháp khí thọ giới. Nếu không có tâm lợi tha,
ban vui cứu khổ, thì không bao giờ phát quảng đại tâm thọ Bồ Tát giới.
Khi ở trước hình
tượng Phật, Bồ Tát, do có tâm tốt tự nguyện thọ Bồ Tát giới, cần phải khởi tâm
nghĩ tưởng rằng: Hình tượng đây dù là bằng cây, bằng vải, nhưng thật ra giống
như đối trước Phật, Bồ Tát chân thật. Sau đó, tự mình giữ tâm thanh tịnh, phát
ra những lời chân thành, khẩn thiết lập thệ nguyện rộng lớn. Miệng tuyên đọc
văn Yết Ma, cầu được thấy Như Lai xoa đảnh, truyền giới pháp. Đây gọi là Yết Ma
đắc giới.
Về việc lập thệ
nguyện, nói về thông nguyện, trong kinh thường gọi là Tứ Hoằng Thệ Nguyện. Nói
về biệt nguyện: hoặc như 10 đại nguyện của đức Phổ Hiền, hoặc mười hai đại
nguyện của đức Quán Âm. Sở dĩ thọ giới cần phải lập phát thệ nguyện, chủ ý là
mong hành giả tuân hành giới pháp một cách thiết thực, mà việc lập thệ nguyện
chính là hình thức duy nhất.
Như Tam Tụ Tịnh Giới
của Đại Thừa:
- Nguyện đoạn
nhứt thiết ác.
- Nguyện tu nhứt
thiết thiện.
- Nguyện độ nhứt
thiết chúng sanh.
Đây chính là
hoằng nguyện cần phải phát thệ trong lúc thọ giới. Sau khi đắc giới rồi, phải
nghiêm trì thật đúng. Ấy chính là thuộc về hạnh Đại Thừa cần phải tu.
Trong Phật pháp,
thệ và nguyện vốn không thể tách rời:
- Vì sự mong
muốn tha thiết ở trong tâm chính là Nguyện.
- Khi đã có sự
mong muốn chân thành thì nhất định sẽ có sự tinh tấn tu hành chân thật, đó
chính là Thệ. Đây là đạo lý nhất định, hành giả phải nên hiểu rõ.
Về việc tự
thệ thọ giới và nương theo thầy thọ giới, có những điểm khác nhau rất quan
trọng:
Tự nguyện thọ
giới phải dùng “thời gian bảy ngày ở trước tượng Phật và Bồ Tát" chí
thành, khẩn thiết sám hối nghiệp chướng trong ba đời.
Trong khi sám
hối, phải nhận thức rằng nghiệp chướng của mình sâu nặng, nên không được thấy
kim thân của Như Lai, lại cũng không tìm được thầy truyền trao giới pháp. Những
điều này nếu không là do nghiệp chướng của mình sâu nặng thì là gì nữa? Đã mang
nghiệp chướng sâu nặng thì giờ đây, đối trước Phật tự phát nguyện thọ giới. Nếu
không chí thành sám hối, làm sao thấy được Phật đến xoa đảnh truyền trao giới
pháp?
Nếu chỉ ở trong
đạo tràng thanh tịnh sám hối cho nghiệp chướng tiêu trừ thì điều đó cũng chưa
đủ, cần phải thấy được hảo tướng.
Nếu thấy được
hảo tướng thì mới biết mình thực “đã đắc giới”.
Nếu sám hối bảy
ngày mà “không thấy được hảo tướng”, cần phải tiếp tục sám hối lâu hơn, hoặc
mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày, nhẫn đến cả năm hoặc hơn một năm không được
gián đoạn. Điều nhất định là phải thấy được hảo tướng mới đúng kỳ hạn. Nếu một
ngày chưa được thấy hảo tướng thì quyết định phải tiếp thêm một ngày nữa sám
hối, cầu được thấy hảo tướng, không được ngừng nghỉ.
Khi được thấy
hảo tướng rồi mới được đối trước tượng Phật, Bồ Tát phát thệ thọ giới. Như vậy
mới gọi là đắc giới. Nếu không được thấy hảo tướng, thì dù có ở trước tượng
Phật thọ giới, vẫn không thể gọi là đắc giới. Nếu thế, chẳng qua chỉ là hư
danh, không thực. Một đời nếu không có giới thể thì vẫn là người bạch y.
Sở dĩ việc thấy
hảo tướng nhanh chậm là do nghiệp chướng của mỗi người dày hoặc mỏng khác nhau,
đồng thời cũng tùy thuộc vào lúc sám hối, tâm hổ thẹn có thật chí thành, khẩn
thiết hay không. Căn cứ vào đó mà quyết định.
Do đâu mà biết
được thấy hảo tướng hay không?
Điều này căn cứ
vào những lúc hành giả sám hối, hoặc trong lúc tọa thiền, hay trong lúc ngủ nằm
mộng thấy hoa đẹp, thấy quang minh. Nếu không thấy chư Phật, Bồ Tát xoa đảnh
mình, thì cũng được thấy các hảo tướng của Như Lai v.v...
Thấy được những
tướng ấy là chứng biết được thấy hảo tướng, cũng tức là đắc giới vậy. Lại nữa,
từ tâm biểu hiện ra tướng. Căn cứ vào đó có thể chứng biết là đắc giới. Như lúc
đối trước tượng Phật, Bồ Tát tự phát thệ nguyện thọ giới. Do có tâm hổ thẹn
thống thiết, tự trách mình mà buồn khóc, hai hàng nước mắt tuôn chảy, tự nói
rằng: “Con hôm nay phát tâm thọ Bồ Tát đại giới với tâm chân thành, tha thiết,
không chút vọng niệm hư dối. Nếu tâm con khởi vọng niệm hư dối, không thể đúng
như pháp để thực hành Bồ Tát hạnh, nguyện chư Phật, Bồ Tát đừng truyền trao Bồ
Tát đại giới cho con. Trái lại, nếu lòng con chân thật chí thành, khẩn thiết
không hư dối, cầu xin chư Phật, Bồ Tát từ bi, truyền trao đại giới Bồ Tát cho
con...”
Vì hành giả tự
biết tâm mình chí thành, khẩn thiết, nên tự biết mình được đắc giới. Hoặc lúc
hành giả tự phát thệ nguyện thọ giới, tự nhiên có những luồng gió mát từ các
phương thổi đến, Đó cũng là những điểm tốt và có thể biết mình đã đắc giới.
Ngày xưa, ở
Trung Hoa, Chân Biểu Luật Sư có chí nguyện cầu giới pháp. Thệ nguyện cầu cho
được đức Di Lặc Đại Sĩ đích thân đến truyền trao giới pháp cho mình.
Ngài bèn lên
đỉnh núi cao, ở trên một tảng đá lớn, ngày đêm tinh tấn dõng mãnh, chí thành
tha thiết sám hối không hề ngơi nghỉ. Công phu khổ thiết như vậy suốt bảy ngày
bảy đêm, ngài được thấy đức Đại Thánh, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát hiện
thân, tay rung tích trượng, nói những lời khích lệ Luật Sư trước khi được thọ
giới.
Luật sư nghe
những lời khích lệ ấy rồi, càng tinh tấn, dõng mãnh, khổ thiết tu hành. Đến
ngày thứ mười bốn, chẳng những không thấy được đức Di Lặc đến truyền giới cho;
trái lại, còn bị một đại ác quỷ xô Luật Sư nhào xuống gộp núi, đồng thời lại
còn hiện ra những ma tướng hình trạng vô cùng quái dị và ra oai dọa nạt Luật Sư
để ngài thối thất sơ tâm thọ Bồ Tát giới.
Luật sư chẳng
những không thối tâm, trái lại, còn tinh tấn tu trì, dõng mãnh, sám hối hơn
trước. Đến ngày thứ hai mươi mốt, các ma tướng không còn hiện nữa. Ngài thấy
núi sông bằng phẳng, toàn thế giới biến thành ngân sắc. Đức hạnh của Luật Sư
cảm động đến thiên vương ở cung trời Đâu Suất, ngài cùng vô số thiên chúng đồng
đến đi nhiễu quanh thạch đàn của Luật Sư đang tu sám pháp. Sau đó, đức Di Lặc
đại sĩ cùng các thị tùng của Ngài từ Đâu Suất nội viện giáng lâm đến trước
thạch đàn.
Đức Di Lặc dùng
tay xoa đảnh Chân Biểu Luật Sư và cực lực tán thán rằng: “Quý hóa thay! Đại
trượng phu! Tâm cầu giới pháp của ông nhất quyết như vậy, trước sau như một,
không hề thối chuyển, núi Tu Di có thể lay động, tâm cầu giới pháp của ông
không thể lay động! Thật là ít có và khó được!”
Đức Di Lặc nói
mấy lời tán thán trên, rồi đem ba y cùng bình bát phú cho Chân Biểu và đích
thân truyền trao giới pháp cho ngài. Sau đó, ban cho Ngài pháp danh là Chân
Biểu.
Lại một trường
hợp khác, Nam Nhạc Tư Thiền Sư một lần nọ nằm mộng thấy bốn mươi hai vị Phạm
tăng danh đức vì thiền sư tác pháp yết ma trở lại để thọ giới Cụ Túc.
Như vậy, chúng
ta có thể chứng biết rằng: nếu có chân tâm, thành ý cao độ, cần cầu giới pháp
thì không người nào không được cảm ứng. Nên trong kinh nói: “Chúng sanh tâm cấu
tịnh, Bồ Đề ảnh hiện trung” chính là ý này vậy.
Vì thế, nếu tâm
sám hối không chí thành khẩn thiết, không liễu đạt tội tánh vốn không, Phật và
Bồ Tát chưa thể hiện ở trước, thì dù cho ở trước tượng Phật, Bồ Tát tự nguyện
thọ giới, cũng không thể đắc giới thể. Đây là việc trọng yếu phi thường, hành
giả cần phải biết.
Nói đến việc
thấy hảo tướng, có một việc cần phải chú ý đặc biệt: Những hảo tướng được thấy,
không phải tất cả đều tốt, vì trong ấy có tà, có chánh. Và dĩ nhiên còn có các
thứ ma sự nữa. Đây là việc thường thấy chứ không phải hiếm có. Về hảo tướng tà
và chánh, tất nhiên khó mà phân biệt, và ma sự cũng không dễ gì nhận rõ được.
Vì thế trong
kinh có dạy cho chúng ta: “Bậc Bồ Tát từ Đăng Địa trở lên, Ma hãy còn hiện thân
Phật và đích thân đến thọ ký cho Bồ Tát”. chúng ta là chúng sanh trong đời mạt
pháp, là phàm phu si ám thì những ma sự như vậy lại không khéo suy xét thật kỹ
hay sao? Do đó, bất cứ hảo tướng nào hiện ra, không nên vội cho là hảo tướng,
mà phải dụng tâm phân biệt kỹ lưỡng:
- Nếu là hảo
tướng chánh thực, tất nhiên có triệu chứng đắc giới hiện ra trước.
- Nếu là hảo
tướng tà ngụy, chính là ác duyên thất giới.
Hơn nữa, các ma
sự vẫn là những thứ nhiễu loạn, khiến cho hành giả không thể tiến tới trong
Phật đạo, để còn ở lại trong tam giới mà làm quyến thuộc của ma. Vì thế, đối
với ma sự, bất cứ là đến làm lưu nạn cho bạn hoặc phá hoại bạn, hoặc xu phụ
bạn, hay trợ giúp bạn v.v... tất cả đều phải chú ý, đừng để lọt vào vòng của ma
vương mà bị ma khuấy rối. Như thế bạn mới có thể ở trước Phật đắc giới một cách
chân chính.
Sau khi Phật
diệt độ, nếu lúc ấy có Pháp Sư đã thọ giới Bồ Tát, khi bạn ở trước vị Pháp Sư
ấy thọ giới Bồ Tát, tự nhiên không cần thấy hảo tướng. Tại sao vậy?
Vì vị Pháp Sư
thuyết giới và người thọ giới đều hiện tiền, không phải như người ở nơi xa mà
xin thọ giới hoặc nhờ người khác thay thế đến thọ giới. Hơn nữa, vị Pháp Sư
truyền trao giới pháp ấy, vốn là “chư sư truyền giới cho nhau” từ thời quá khứ,
thông thường gọi là có gốc, có nguồn. Cho nên, không cần thấy hảo tướng.
Câu kinh văn
“chư sư truyền giới cho nhau” ở đây nói, có chỗ giải thích là bảy Đức Phật thời
quá khứ, có chỗ nói là đức Lô Xá Na truyền cho đức Thích Ca, đức Thích Ca
truyền cho đức D Lặc Bồ Tát. Đức Di Lặc truyền cho chư Bồ Tát khác. Như thế,
tuần tự truyền trao, bẩm thọ, cùng nhau truyền thừa không gián đoạn. Ví như các
ngọn đèn, đèn trước nối ánh sáng cho đèn sau, tiếp tục nhau không dứt. Nên biết
rằng vị giới sư truyền thừa đồng với chư Phật thời quá khứ, vì thế nếu ở trước
vị Pháp Sư ấy thọ giới thì liền đắc giới.
Tại sao vậy? Do
vì chính lúc người giới tử cầu giới pháp, đối trước vị Giới Sư thuyết giới hết
lòng kính trọng, “xem vị giới sư tuyên đọc giới pháp đồng như Phật”, cho nên
được đắc giới.
Nơi đây cũng cần
nói sơ lược về sự khó, dễ của việc tự nguyện thọ giới, cũng như việc bẩm thọ
giới với thầy.
Theo Đại Thừa Bồ
Tát Giới, dù Phật có cho phép Phật tử được tự thệ nguyện thọ giới, nhưng vì bổn
thân của người thọ giới không có giới thể, nên phải từ nơi Phật, Bồ Tát mà đắc
giới.
Vấn đề là ở chỗ
các ngài có đến truyền trao giới pháp cho mình hay không? Việc ấy tự mình thực
là khó biết. Vì thế phải căn cứ ở việc có hảo tướng hay không có hảo tướng, để
biết được đắc giới hay không.
Hơn nữa, tự
nguyện thọ giới giống như cọ cây để lấy lửa, phải khổ công cực nhọc liên tục,
nếu công việc một phút giây ngừng nghỉ thì không thể nào lấy được lửa. Còn
trường hợp thọ giới từ nơi thầy thì trái lại, không phải như thế. Giống như
việc mồi đèn lấy lửa, chỉ cần gặp được đèn có lửa, lập tức có thể mồi được
ngay. Ánh sáng luôn tương tục không cần phải dụng công khó nhọc. Sự khó khăn
của vấn đề tự thọ giới và sự dễ dàng của vấn đề từ nơi thầy thọ giới, có thể
thấy rõ qua thí dụ trên.
Vì vậy, có thể
thấy rõ tầm quan trọng vô cùng của vị thầy giúp cho chúng ta được đắc giới. Nên
người Phật tử thọ giới, đối với vị giới sư phải sanh tâm cung kính, tôn trọng
giống như cung kính, tôn trọng đức Phật. Chỉ có như thế mới có thể cảm phát
được tâm địa đại giới.
Vào thời Mạt
Pháp hiện nay, không dễ gì gặp được một vị Giới Sư đầy đủ mọi phương diện như
pháp và luật quy định. Nếu gặp được vị Giới Sư như thế, phải nghĩ tưởng rằng đó
là một điều rất khó gặp, phải sanh tâm ân cần, chí thành, khẩn thiết đối với vị
Giới Sư truyền giới, và phải đúng theo pháp, hết lòng cung kính tiếp thọ lời
dạy bảo, dẫn dắt của Ngài.
Nhưng nhìn lại
tình trạng Phật giáo ngày nay, một vị Giới Sư đúng như Luật quy định khó gặp đã
đành, mà người thành tâm, thành ý khẩn cầu giới pháp càng muôn người khó được
một.
Hiện nay có rất
nhiều nơi truyền trao giới pháp, giới sư thấy giới tử có những điều sai lầm nên
quở trách, hoặc vì giới tử giải đãi mà nói những lời khuyên nhủ, hoặc vì thấy
giới tử không giữ oai nghi mà la rầy v.v... Người giới tử chẳng những không
thành tâm, thành ý tiếp thọ lời răn dạy; trái lại, còn sanh tâm bất mãn đối với
giới sư, không tự kiểm điểm chính mình lại sanh ý niệm giận buồn đối với giới
sư. Như vậy, chính là tự mình đã đánh mất hẳn sự lợi ích của việc đắc giới, lại
còn mắc phải tội lỗi rất nặng.
Lại có một số
người sau khi thọ giới xong, lập tức xa lìa giới sư, cũng không thèm học hỏi ý
nghĩa của giới luật. Dường như họ cho rằng đã thọ giới rồi thì việc gì cũng
biết, cũng hiểu, nên tùy tiện đi đến khắp nơi, cứ gặp việc thì làm bướng, làm
càn, cốt mong cầu danh dự, lợi dưỡng. Thật không hiểu những người như vậy xuất
gia, thọ giới để làm gì?
Phật giáo ngày
nay đã đến thời kỳ Mạt Pháp. Dù vẫn có người cầu thọ giới pháp, nhưng những
người có thể theo đúng như pháp mà giữ gìn rất là hiếm. Có thọ giới mà không
trì giới, thân tâm không thanh tịnh thì làm sao có thể hộ trì chánh pháp của
Như Lai? Và làm sao có thể tuyên thuyết tâm địa đại giới?
Nhưng nếu “trong
vòng nghìn dặm mà không tìm được vị Pháp Sư" đủ trí lực có thể truyền
giới, và nếu hành giả lại có tâm tốt, tha thiết mong cầu được thọ giới pháp,
trường hợp đặc biệt này vì không còn biện pháp nào khác hơn, nên đương nhiên
“Phật tử này được phép đối trước tượng Phật và Bồ Tát mà tự nguyện thọ giới Bồ
Tát”, nhưng phải với một điều kiện là thấy được hảo tướng.
Có thể thấy được
hảo tướng rồi mới có thể đắc giới và cũng không đến nỗi phạm sai lầm gì. Nếu
không được thấy hảo tướng, thì dù đối trước tượng Phật thọ giới cũng không thể
đắc giới. Lại nữa, nếu trong vòng nghìn dặm mà có vị giới sư có đủ trí lực, có
thể truyền trao giới pháp, thì phải thọ giới với vị giới sư ấy mới đúng
pháp.
Nếu có thầy
truyền giới mà không bẩm thọ giới nơi thầy, lại đối trước hình tượng Phật, Bồ
Tát mà thọ giới. Trường hợp này chẳng những không thể đắc giới, mà lại còn
chiêu cảm lấy tội kiêu mạn, tà tịch, thọ giới. Vì thế, với điểm này phải tuyệt
đối lưu ý và thận trọng. Nếu đối với vị giới sư hiện tại mà sanh tâm kiêu mạn,
không hết lòng tôn trọng, cung kính là một điều vô cùng bất lợi cho chính
mình.
Nếu nói
như vậy thì công đức tự thọ giới không lẽ không bằng công đức thọ giới từ nơi
thầy hay sao?
Không phải như
vậy! Trường hợp trong vòng nghìn dặm nếu không có vị Pháp Sư có đủ trí lực
truyền giới thì được ở trước hình tượng Phật, Bồ Tát tự thệ nguyện thọ giới. Vì
chính lúc ấy, tâm thọ giới ân cần, khẩn thiết và mãnh liệt, thì công đức của
người thọ giới cũng rất là thù thắng và cũng bằng công đức từ thầy mà thọ giới.
Nên trong luận Du Già quyển 53 nói:
Tự thệ, tùng
tha,
Nhược đẳng tâm
thọ,
Diệc như thị
trì,
Phước đức vô
biệt.
Nghĩa là ý nói:
tự nguyện thọ giới hay từ thầy thọ giới, nếu tâm thọ giới chí thành, tha thiết
như nhau, nghiêm trì giới pháp như nhau, thì phước đức không hơn kém. Vì cả hai
trường hợp tự thệ thọ giới và từ nơi thầy thọ giới đều không phải dễ dàng, nên
cả hai đều đáng tán dương.
Do đó, hàng tân
học Bồ Tát sau khi thọ giới, nếu có điều chi liên quan đến giới luật mà chưa
thông hiểu, cần phải đến thỉnh cầu vị Pháp Sư thông đạt kinh luật hơn mình chỉ
giáo cho. Và vị Pháp Sư cũng đem hết chỗ hiểu biết của mình mà vì hàng tân học
diễn nói. Khi hàng tân học Bồ Tát đến học hỏi kinh luật, Pháp Sư phải xem như
con một của chính mình. Như thế mới xứng với tư cách làm sư phạm cho nhân
thiên.
Nếu vị Pháp Sư
trong tâm tự ỷ mình là người học rộng, lảu thông kinh luật cùng giới pháp Đại
Thừa, bên ngoài tự ỷ mình kết giao được với các nhà quyền quý. Khi có hàng tân
học Bồ Tát đến cầu học nghĩa kinh luật, Pháp Sư tự ỷ chỗ thông hiểu Phật pháp
của mình và sự kết giao với các nhà quyền quý mà có thái độ tự thị đối với hàng
tân học Bồ Tát đến cầu pháp, lại còn sanh tâm giận ghét hay khinh khi, không
chịu tận tâm chỉ bảo. Hay dù có giảng nói Phật pháp, cũng khiến cho nghĩa lý ấy
bị khó hiểu, mất mát, không rõ ràng, hoặc làm đảo lộn sự trì phạm giới tướng,
nên trong kinh kết luận Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Trong kinh
văn:
Dùng từ “nghĩa
kinh” để chỉ những đạo lý đoạn ác, tu thiện cùng hạnh tu tự lợi, lợi tha. Từ
“nghĩa kinh” thuộc về phương diện giáo thọ.
Dùng từ “nghĩa
luật” để chỉ giới tướng khinh, trọng, cùng với các hạnh nghi Khai, Trì, Giá,
Phạm. Từ “nghĩa luật” thuộc về giáo giới.
Khi làm sư phạm
cho người, đối với hai phương diện trên, cần phải tùy thời dạy bảo, khuyên răn
cho hàng hậu học sanh tâm hoan hỷ, càng nỗ lực tiến tu trong Phật pháp. Được
như thế mới có thể gọi là vị Pháp Sư đầy đủ lòng từ bi.
Trong Du Già Bồ
Tát giới bổn cũng dạy: “Bồ Tát an trụ nơi tịnh giới luật nghi, nếu có người từ
xa đến cầu thỉnh mình giảng nói chánh pháp của Như Lai, Bồ Tát phải tùy theo
khả năng của mình, giảng nói pháp cho người cầu pháp nghe, không được lẫn tiếc
mảy may, giúp cho người cầu pháp được minh bạch đạo lý trong Phật pháp. Nếu
không thực hành như thế, lại mang tâm niệm sân hận, bực tức, không tận tâm
giảng nói giới pháp. Hoặc do tâm tật đố làm chướng ngại, sợ rằng người ấy nghe
được chánh pháp sẽ phát sanh được trí huệ thù thắng, sẽ được hưởng nhiều lợi
dưỡng, nên không chịu vì người giảng nói pháp. Đây là việc hết sức sai lầm và
trái phạm luật nghi của Bồ Tát.
Lại có tình
trạng những Pháp Sư không phải hoàn toàn không có ý muốn vì người giảng nói
chánh pháp, mà tùy theo đối tượng cầu pháp mà giảng:
- Nếu là đồ
chúng của mình thì rất từ bi hoan hỷ rộng giảng kinh pháp. Đôi khi còn tự trách
hoặc ân hận mình không thể hoàn toàn đem hết chỗ hiểu biết của mình để giảng
dạy cho đồ chúng.
- Trái lại, nếu
đồ chúng của người đến cầu pháp thì không thích giảng nói pháp. Trường hợp phải
giảng nói thì cũng miễn cưỡng, phô diễn hạn chế, không chịu đem hết nghĩa lý
trong Phật pháp diễn đạt cho rõ ràng.
Tình trạng này
đã có từ lâu, nhưng hiện nay thì lại còn xảy ra nhiều hơn nữa. Hành động như
thế chẳng những trái phạm với tâm từ bi bình đẳng mà cũng không phải là tư cách
của kẻ làm sư phạm, nhất là ngược với tinh thần của vị Bồ Tát".
Bồ Tát phải là
người bạn bất thỉnh mà đến của chúng sanh, phải vận dụng nhiều phương tiện
nhiếp hóa chúng sanh, khiến cho mỗi chúng sanh đều phát tâm học Phật. Như thế
mới là vun trồng vô lượng công đức cho mình.
Trong kinh Anh
Lạc dạy: “Vị Pháp Sư có thể ở trong tất cả các quốc độ giáo hóa được một người
xuất gia thọ Bồ Tát giới, thì phước đức của vị Pháp Sư này hơn phước đức của
người tạo tám vạn bốn ngàn cái bảo tháp của Như Lai. Giáo hóa được một người
còn như vậy, huống chi hai, ba người cho đến trăm nghìn người thì phước đức đắc
quả không thể nào tính được”.
Theo lời kinh
dạy trên, chúng ta thấy hóa độ được chúng sanh càng nhiều thì được phước đức
càng lớn. Vì vậy, khi có người đến cầu pháp phải tận tâm giảng dạy.
Theo lời trên
thì trong mọi trường hợp đều phải vì người giảng nói chánh pháp, có phải như
vậy không?
Không! Không
phải tất cả đều như vậy. Theo trong kinh luật dạy:
- Trường hợp lúc
mình có bịnh, không có đủ khí lực, có người đến thỉnh vấn Phật pháp, nếu bạn
không thể giảng nói thì không có lỗi.
- Hoặc vấn đề
người đến thỉnh vấn tự bản thân mình chưa hiểu rõ.
- Hoặc biết
người ấy đã bị tiêm nhiễm ác kiến trong tâm, không phải thật có tâm đến thỉnh
vấn Phật pháp, mà chỉ muốn tìm kiếm những lỗi lầm trong Phật pháp.
Như vậy, nếu bạn
không giảng nói thì cũng không có lỗi gì.
- Hoặc người đến
cầu pháp Đại Thừa mà không có tâm kính trọng.
- Hoặc người đến
cầu pháp, căn tánh ám độn, không thể nghe pháp thâm diệu Đại Thừa.
- Hoặc dầu có
nghe cũng không tin, đôi khi còn sanh khởi tà kiến, thậm chí còn hủy báng Đại
Thừa là khác.
Như thế nếu bạn
không vì người giảng nói cũng không phạm tội.
- Hoặc biết
người đến cầu pháp không thể y theo Phật pháp để tu trì, mà chỉ nghe pháp rồi
lại đem Phật pháp giảng lại cho những người ác không tin Phật.
- Hoặc không
phải dùng sự thuyết pháp là một phương tiện để điều phục người, giúp họ ra khỏi
cảnh giới bất thiện, an trụ vào cảnh giới thiện.
Như thế, nếu bạn
không giảng nói pháp thì không phạm tội.
Nếu vi phạm giới
này là trái với tư cách tiếp dẫn và giáo hóa chúng sanh nên thuộc về cả hai
tội: tánh tội và giá tội. Đặc biệt hoàn toàn ngăn cấm mà không có trường hợp
khai triển. Nếu phối hợp giới này với Tam Tụ Tịnh Giới thì:
- Đúng như pháp
thọ giới thuộc về Nhiếp Giới.
- Không tự ỷ
mình thuộc về Nhiếp Thiện Pháp Giới.
- Tận tâm đáp
lại lời hỏi của người cầu pháp thuộc thuộc về Nhiếp Chúng Sanh Giới.
Thực hành
được như vậy thì Tam Tụ Tịnh Giới đương nhiên thanh tịnh. Nếu trái lại thì trái
phạm với Tam Tụ Tịnh Giới.
Phàm là
người Phật tử Đại Thừa, tất nhiên phải vì người mà giảng nói chánh pháp. Nói
theo lập trường này thì thất chúng Phật tử nào không vì người giảng nói chánh
pháp đều trái phạm với giới này. Giới này áp dụng cho cả Đại Thừa lẫn Tiểu
Thừa. Nghĩa là không cho phép Đại Thừa tà tịch thuyết pháp, luôn cả Tiểu Thừa
nếu tà tịch thuyết pháp thì cũng không được.
Tội ác của
“kiêu mạn tịch thuyết giới” kết thành do bốn duyên:
- Xác thực là có
người đến cầu pháp mà không thuyết pháp.
- Trong tâm
tưởng biết có người đến cầu pháp mà không thuyết pháp.
- Có tâm kiêu
mạn, tự ỷ. Đây là chủ nghiệp của giới này.
- Từ miệng
thốt ra những lời thuyết pháp tà tịch và khinh ngạo người. Cứ nói một câu thì
kết tội một câu, một lời tà luận tội một lời.
Đủ bốn
điều trên thì kết thành tội khinh cấu. Nếu thiếu bất cứ điều nào thì không kết
thành tội được.