KINH PHẠM VÕNG BỒ TÁT GIỚI BỔN GIẢNG KÝ
Hán văn: Pháp sư Thích Diễn Bồi
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Minh
Chương
III: CHÁNH THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(chánh thức thuyết giảng giới tướng)
B. BIỆT
THUYẾT GIỚI TƯỚNG
(thuyết giảng riêng biệt giới tướng)
B.2.2. BIỆT
THUYẾT KHINH GIỚI
(riêng giảng các giới khinh)
B.2.2.44. BẤT CÚNG DƯỜNG KINH LUẬT GIỚI
(giới không cúng
dường kinh luật)
Kinh văn
1. Phiên âm:
Từ câu “nhược Phật tử thường ưng nhất tâm thọ trì, độc tụng Đại Thừa kinh luật...” cho đến câu ‘...phạm khinh cấu tội”.
2. Dịch nghĩa:
Nếu là Phật tử phải thường nhất tâm thọ trì, đọc tụng kinh luật Đại Thừa, dùng giấy, vải, hàng lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy, trích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết để biên chép kinh luật, dùng vàng bạc cùng hương, hoa vô giá và tất cả các châu báu làm hộp, rương, đựng những quyển kinh luật. Nếu không y theo pháp mà cúng dường kinh luật, Phật tử này phạm khinh cấu tội.
Lời giảng
Là Phật tử mà
hủy phạm giới cấm là điều Đức Phật không bao giờ chấp thuận, điều đó nhất định
là như vậy. Đối với Pháp Bảo không cung kính cũng là việc nhất định không
được.
Giới sở dĩ không
nên hủy phạm vì giới là thắng nhân thành vô thượng Phật quả., nên kinh Hoa
Nghiêm dạy: “Giới là cội gốc của vô thượng Bồ Đề”, chính là ý ấy. Pháp Bảo sở
dĩ không được thiếu sự kính trọng vì Pháp Bảo là mẹ của chư Phật. Nên kinh Kim
Cang dạy: “Quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề của tất cả chư Phật đều từ kinh
này xuất sanh”, cũng chính là ý này.
Pháp cũng là
thầy của chư Phật, nên chư Phật hết sức tôn trọng, cung kính Pháp Bảo. Bồ Tát
đối với Pháp Bảo phải cung kính giống như kính Phật. Và muốn chứng đắc Phật quả
như chư Phật, không có lý do gì không sùng trọng Pháp Bảo. Nếu không tôn trọng,
đúng như pháp cúng dường Pháp Bảo thì không biết nương vào diệu pháp chi để
tiến tu theo Phật đạo, và mọi hành vi của bạn cũng không thể hợp với Chánh Đạo.
Vì thế cúng dường kinh điển, tôn trọng Pháp Bảo quả thật không nên xem
thường!
Là Phật tử, đối
với Tam Bảo có bổn phận phải bình đẳng kính trọng và phước huệ nhị nghiêm đồng
tu tập. Nếu không cúng dường kinh điển thì trái với bổn nguyện “thượng cầu Phật
đạo”. Nếu không viết chép kinh điển thì trái với hạnh “hạ hóa chúng sanh”.
Do đó:
- Đối với kinh
điển cần phải lưu thông.
- Đối với giới
pháp cần phải cúng dường, để cho huệ mạng của Phật pháp được liên tục, không bị
đoạn tuyệt.
Nếu không
làm như thế thì trên là cô phụ thâm ân của Đức Phật, dưới là buông bỏ trách
nhiệm của mình cần phải lo tròn, tức là chính mình tự nguyện đọa lạc vậy.
Nên biết rằng
huệ mạng của Như Lai hoàn toàn nương nhờ tam tạng thánh giáo, vì thế, nếu Phật
tử không xem trọng Thánh Giáo thì Phật pháp làm sao có thể cửu trụ trong thế
gian?
Đức Phật dạy đại
chúng rằng: “Nếu là một Phật tử đã thọ Bồ Tát giới, vì muốn cho Phật pháp được
cửu trụ trong thế gian, thường phải nhất tâm thọ trì, đọc tụng kinh luật Đại
Thừa”.
Trong kinh dạy
thường phải nhất tâm, chứng tỏ người Phật tử tu các thiện pháp không được xen
tạp, không được gián đoạn và không được có chút giải đãi, biếng lười. Nếu không
thường thực hành như thế, mà lúc tu, lúc nghỉ, chắc chắn không thể nào thành
công.
Ở đây, “tu tập
những thiện pháp” không phải nói những công hạnh như lục độ, vạn hạnh... mà
chính là cần phải thọ trì, đọc tụng kinh luật Đại Thừa:
- Thọ là lãnh
nạp ý thú văn tự trong kinh luật.
- Trì là nhớ
nghĩ mãi mãi trong tâm không quên.
- Đọc là xem
theo bổn kinh mà đọc lên.
- Tụng là thuộc
lòng mà đọc lên theo âm điệu.
Ngoài những việc
nói trên còn cần phải chép, viết ra trên giấy trắng như hiện nay có người phát
tâm tả kinh Pháp Hoa, kinh Kim Cương, kinh Hoa Nghiêm v.v...
Những việc sao
chép ở đây không phải chỉ như vậy mà phải lột da làm giấy, trích máu làm mực,
lấy tủy làm nước, chẻ xương làm bút, để biên chép kinh luật. Thành thật mà nói,
việc này không phải người thông thường có thể làm được. Như hiện nay, có người
phát tâm chích huyết tả kinh. Mọi người chúng ta đã cho việc ấy là quý trọng
phi thường, nên đua nhau xưng tán. Nhưng việc làm này so với việc trong kinh
hiện tại đây dạy, cách nhau rất xa.
Chư Đại Bồ Tát
vì sao có thể thực hành đến mức độ ấy?
Chẳng qua vì các
ngài đã nhận định rất sâu sắc rằng sanh mạng nhục thể này chỉ là vật không kiên
cố, không chóng thì chầy cũng sẽ bị hủ mục, không phải là vật sở hữu vĩnh viễn,
thường tồn của mình. Nay quyết đem nhục thể mong manh bại hoại này, dùng viết
chép kinh luật, lưu thông pháp bảo để cho thân mạng trí huệ nhờ đó mà được vĩnh
hằng bất diệt. Như thế trên thế gian này có sự vui sướng nào hơn mà không chịu
làm?
Lại nữa, các
Ngài biết đích xác rằng: Tất cả chư Phật được thành đạo vô thượng Bồ Đề đều do
học tập kinh luật Đại Thừa mà ra, nếu không thì quyết định không thể nào thành
Phật được.
Cũng vậy, hiện
nay chúng ta và tất cả chúng sanh nếu không học tập kinh điển Đại Thừa và lưu
thông Pháp Bảo thì làm sao đạt được mục đích thành Phật?
Trong Đại Trí Độ
Luận, quyển 18 nói: “Thời quá khứ có một Phạm Chí tên là Ái Pháp, đi khắp cõi
Diêm Phù Đề để thỉnh cầu chánh pháp suốt mười hai năm, nhưng chưa tìm được. Vì
thời ấy chẳng những không có Phật trụ thế mà cả chánh pháp của Như Lai cũng bị
hoại diệt.
Tâm của Ngài quá
chí thành nên đã được cảm ứng. Một hôm, có một người bà la môn nói với ngài
Phạm Chí rằng: “Ông có tâm chân thành cầu chánh pháp phải không? Rất tốt! Tôi
đây biết một bài kệ chánh pháp có thể tuyên đọc cho ông nghe”.
Phạm Chí đáp
rằng: - Thưa ông! Tôi vì mong cầu được nghe chánh pháp nên suốt 12 năm đi khắp
Nam Diêm Phù Đề để tìm cầu.
Người Bà La Môn
lại nói: - Nếu ông thật tâm cầu chánh pháp, tôi có một điều kiện, nếu ông làm
được, tôi sẽ tuyên đọc bài kệ cho ông nghe tức khắc. Tôi cho ông biết điều kiện
ấy không thể dễ dàng. Ông phải dùng da làm giấy, xương làm viết, huyết tươi làm
mực để chép bài kệ.
Phạm chí thưa
rằng: - Thưa đại sư! Điều kiện ấy không phải là vấn đề khó khăn, tôi chỉ mong
được nghe chánh pháp.
Nói xong, ngài
liền làm theo lời người bà la môn và chép bài kệ như sau:
Như pháp ưng tu
hành,
Phi pháp bất ưng
thọ,
Kim thế diệc hậu
thế
Hành pháp giả an
ổn.
Dịch:
Đúng như pháp tu
hành,
Phi pháp không
nên thọ.
Đời này và đời
sau,
Người hành pháp
yên ổn.
Câu chuyện trên
là một tấm gương chứng tỏ lòng vì pháp không tiếc thân mạng. Những chuyện hy
sinh thân mạng vì pháp như vậy có rất nhiều trong kinh. Chuyện này chỉ là
một.
Ngoài việc
chuyện hy sinh thân mạng viết chép kinh điển, còn phải dùng các thứ mộc bì, cốc
chỉ, quyên tố, trúc bạch... để viết chép, thọ trì kinh điển (vỏ cây, giấy, vải,
lụa, tre).
Mộc bì là dùng
vỏ cây làm giấy.
Cốc chỉ là dùng
vỏ cây làm giấy (cốc ở đây không có nghĩa là lúa).
Quyên tố là dùng
tơ trắng dệt thành vải.
Trúc bạch là
dùng thẻ tre và lụa để viết chữ lên. Vì thời xưa chưa chế tạo được giấy nên
dùng những thứ trên để viết chép kinh điển. Tùy thời gian và địa phương mà dùng
các loại khác nhau như:
Xứ Thiên Trúc
thì dùng vỏ cây, hoa và lá của cây Bối Đa La, lụa bạch điệp v.v... Ở xứ này,
chế tạo loại giấy đầu tiên là tên là Hách Đề từ đời Tiền Hán.
Đến thời Hậu
Hán, đời vua Hòa Đế, có ông Thái kinh Trọng, dùng vỏ cây và vải, lưới cá rách
để chế tạo giấy. Hiện nay, đa số dùng da cây chỉ và tre để chế tạo.
Dùng những
phương tiện này để viết chép kinh luật lưu bố rộng rãi, phổ biến khắp nơi là
việc làm tài thí và pháp thí phước đức vô cùng, vô tận.
Viết chép kinh
luật để lưu thông là việc làm rất hiếm có và khó làm, lại cần phải bảo tồn cho
hoàn hảo những kinh điển đã viết và phải dùng “vàng bạc, hương hoa vô giá và
tất cả châu báu làm hộp, rương đựng những quyển kinh luật” để không bị thất lạc
và hư hoại.
Hiện nay kỹ
thuật ấn loát đã tiến bộ. Phật tử xuất gia lẫn tại gia nếu phát tâm ấn tống
kinh luật cho người đọc tụng càng nhiều càng tốt. Công đức này ngang với việc
làm trên. Hy sinh vàng bạc để phổ biến kinh luật Pháp Bảo của Như Lai là sự
cúng dường tối thượng và thù thắng của hàng Phật tử, cũng là phương tiện tối
yếu để hoằng truyền chánh pháp của Như Lai, làm cho ngôi Tam Bảo được hưng thạnh.
Nếu không y theo pháp mà cúng dường kinh luật, Phật tử này phạm khinh cấu
tội.
Giới này thuộc
về Giá Tội, chỉ ngăn cấm chứ không khai miễn, và sở dĩ Phật tử phạm giới này vì
không có tâm tôn kính Tam Bảo.
Thất chúng Phật
tử đều phải tuân giữ giới này, Đại, Tiểu Thừa dùng đồng phải học, nhưng quy
luật áp dụng cho hai bên không hoàn toàn giống nhau:
- Tiểu Thừa: Nếu
không trì tụng Tỳ Ni thì phạm tội, ngoài ra không bị cấm chế.
- Đại Thừa: đối
với năm việc thọ trì, đọc, tụng, viết chép, dùng hương hoa quý báu, vàng bạc
v.v... cúng dường, phải đúng theo pháp mà thực hành, nếu không thì phạm khinh
cấu tội.
Kinh Giới Bổn
dạy: “Khi Phật còn tại thế, hay sau khi diệt độ, tỳ kheo tăng, thập phương thế
giới đại Bồ Tát chúng, Phật tử ở trong tự viện, tháp miếu, mỗi một ngày đêm đối
với quyển kinh Bồ Tát Tu Đa La Tạng (Kinh Tạng), hoặc Ma Đắc Lặc Già Tạng (Luật
Tạng), hoặc đối với tăng tỳ kheo, thập phương thế giới đại Bồ Tát chúng... nếu
không cúng dường ít nhiều, cho đến một lần lễ bái, hay dùng một bài kệ tán thán
công đức Tam Bảo, cho đến không giữ gìn tâm thanh tịnh trong một niệm, không có
tâm cung kính, lại giải đãi, biếng lười... thì phạm tội ô nhiễm”. Đối với tính
hay lẫn lộn, quên lãng thì không mắc tội ô nhiễm.
Đối với Đại
Thừa, quý Bồ Tát đã chứng nhập Tâm Địa thanh tịnh, nếu không làm như thế thì
cũng không phạm.
Đối với Tiểu
Thừa, quý tỳ kheo đã được thanh tịnh bất hoại, không thực hành cũng không phạm,
thế nên là Phật tử lấy phải lấy việc cúng dường tất cả Tam Bảo làm pháp thường
hành vậy.