Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

79. Công chúa xấu xí

03 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9569)
79. Công chúa xấu xí

MỘT TRĂM BÀI KINH PHẬT
Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải

PHẨM THỨ TÁM: CÁC VỊ TỲ-KHEO NI

CÔNG CHÚA XẤU XÍ

Lúc ấy, Phật ở thành Xá-vệ, trong vườn Kỳ thọ Cấp Cô Độc. Hoàng hậu của vua Ba-tư-nặc là phu nhân Mạt-lỵ vừa hạ sinh một công chúa, dung mạo cực kỳ xấu xí. Thân thể thô kệch, da thịt xù xì, đầu tóc cứng nhắc, bờm xờm như đuôi ngựa.

Vua Ba-tư-nặc nhìn thấy con như vậy thì không vui chút nào, liền dặn nội thị phải thận trọng giữ kín, không được để cho người ngoài nhìn thấy hoặc hay biết chuyện này. Vua lại nghĩ rằng: “Con bé ấy tuy hình dung xấu xí, nhưng dù sao cũng là do phu nhân Mạt-lỵ sinh ra.” Liền dặn người phải chăm sóc nuôi dưỡng cẩn thận.

Khi công chúa lớn lên, đến tuổi gã chồng, vua lo buồn suy nghĩ, chẳng biết làm sao, vì công chúa xấu quá. Liền gọi một vị đại thần đến, dặn kín rằng: “Ngươi hãy vì ta mà đi tìm cho công chúa một người chồng. Nên tìm người nào trước đây thuộc dòng hào tộc, nhưng gia thế nay đã suy sụp, túng thiếu bần hàn thì mới thích hợp.”

Đại thần vâng lệnh, tìm khắp nơi, được một người trước đây vốn con nhà hào tộc danh gia, nhưng hiện tại bần cùng đói khổ. Liền đưa đến bái kiến vua.

Vua liền đưa người ấy vào chỗ kín đáo, đuổi hết kẻ hầu chung quanh ra, rồi mới bảo rằng: “Ta nghe nhà ngươi vốn dòng hào tộc, giờ đây túng thiếu bần cùng. Vậy ta sẽ chu cấp các thứ tài vật trân bảo cho ngươi, khiến cho được giàu có như xưa. Nay ta có một đứa con gái, diện mạo cực kỳ xấu xí, mong ngươi hãy thuận ý ta, nhận nó làm vợ.”

Người bần cùng ấy liền quỳ tâu lên vua rằng: “Xin theo lời dạy của vua. Dù vua có bảo tôi lấy chó làm vợ, tôi cũng không dám trái ý, huống hồ công chúa vốn thật do phu nhân Mạt-lỵ sinh ra.”

Vua liền mang công chúa gã cho người ấy. Rồi ban cho nhà cửa cao rộng, dặn người chồng phải thường xuyên đóng chặt cửa nhà, nếu có đi ra ngoài thì phải khóa lại, chẳng cho người ngoài ra vào, sợ nhìn thấy công chúa xấu xí. Về phần công chúa cũng phải giữ kỹ trong nhà chẳng cho đi ra bên ngoài. Vua nói với phò mã rằng: “Con ta xấu lắm, chẳng nên để cho người ngoài trông thấy.”

Vua ban cho rất nhiều tài vật, trân bảo, lại phong cho phò mã làm đại thần.

Qua một thời gian, vị đại thần ấy trở nên giàu có, thường giao du đi lại với các nhà hào tộc, phú gia. Ngày kia có lễ hội lớn, hết thảy mọi người đều đến dự. Người nào cũng đưa vợ đến để cùng vui chơi.

Những người dự hội khi ấy thấy vị đại thần ấy dự hội một mình, không có vợ cùng đi, liền sinh nghi ngờ, hỏi nhau rằng: “Người ấy không đưa vợ đến đây, hoặc giả là vợ anh ta đẹp quá, không muốn cho ai nhìn thấy, hoặc là xấu xí cùng cực, chẳng muốn để lộ ra?” Bàn qua nói lại, chẳng ai biết được thực hư thế nào, liền cùng nhau lập kế tìm hiểu.

Cả bọn luân phiên chuốc rượu cho người ấy đến say mèm, nằm lăn ra đất. Xong, họ cử ra năm người đi đến nhà người ấy mà xem cho biết sự thật.

Khi ấy, công chúa xấu xí ở nhà trong lòng phiền não, tự hối trách mà suy nghĩ rằng: “Ta xưa đã tạo ác nghiệp gì mà nay phải thọ khổ thế này? Hình dung xấu xí khiến cho chồng chẳng dám cho ra bên ngoài, phải thường ở trong phòng kín, chẳng được giao tiếp cùng ai cả.”

Rồi lại nghĩ rằng: “Nay có Phật ở đời, thường lấy tâm từ bi mà quán sát hết thảy chúng sanh, cứu độ cho những ai khổ nạn.” Nghĩ vậy rồi liền quỳ xuống mà vọng bái đức Thế Tôn, nguyện được ngài thương tưởng mà hiện đến giáo hóa cho. Lòng cô chân thành, chí tâm cầu thỉnh, nên Phật biết tâm nguyện của cô liền hiện đến.

Thoạt tiên, đức Thế Tôn hiện cho cô thấy đỉnh đầu của ngài. Cô nhìn thấy rồi trong lòng vui sướng, hân hoan, sinh lòng tin phục sâu vững. Bỗng nhiên tóc trên đầu cô hóa ra mềm mại, óng mượt, xinh đẹp vô cùng.

Dần dần, Phật hiện cả toàn thân cho cô chiêm ngưỡng. Khi cô nhìn thấy toàn thân Phật rồi, lòng cô vui mừng khôn xiết, trong tâm hoan hỷ, thanh thản nhẹ nhàng, bao nhiêu lo buồn, sầu khổ đều mất hết. Bỗng nhiên thân hình cô hóa ra đoan chánh, mỹ miều, dáng vẻ xinh đẹp như tiên giáng thế.

Khi ấy, Phật hiện hào quang sắc vàng rực rỡ quanh thân cho cô thấy, cô liền sinh lòng kính tín, khát ngưỡng. Phật vì cô mà thuyết pháp Tứ diệu đế cho nghe, ngay khi ấy cô liền đắc quả Tu-đà-hoàn. Thuyết pháp xong, Phật trở về tinh xá Kỳ Hoàn.

Bấy giờ, năm người do nhóm trưởng giả nơi lễ hội cử đến cũng vừa tới nơi. Họ giả vờ gọi cửa bảo là đem tin của ông đại thần về. Công chúa cho người mở cửa mời vào. Nhìn thấy công chúa rồi, bọn họ tâm thần mê mẩn, đều khen là chưa từng được thấy ai xinh đẹp đến thế. Họ bảo nhau: “Thảo nào ông ta không dám đưa vợ đến nơi lễ hội.” Rồi họ trở về chỗ lễ hội mà loan tin ấy với mọi người. Được thỏa mãn rồi, ai nấy đều giải tán.

Ông đại thần tỉnh rượu, tự tìm về nhà. Ông thấy một người con gái xinh đẹp tuyệt thế ở trong nhà mình thì hết sức kinh ngạc, liền lên tiếng hỏi: “Nàng là ai? Vì sao lại đến đây?” Công chúa đáp: “Em là vợ của chàng đây mà.” Rồi cô đem hết mọi sự thuật lại cho chồng nghe. Kể xong, cô lại nói: “Xin chàng vì em đến tâu với phụ vương, xin cho em gặp mặt.” Người chồng nhận lời, vào cung xin gặp vua Ba-tư-nặc.

Khi gặp vua rồi, người nói: “Công chúa muốn gặp đại vương.” Vua đáp: “Chớ nói điều ấy. Ngươi chỉ nên canh chừng cửa nẻo cho nghiêm nhặt, đừng để nó đi ra bên ngoài.” Người chồng nói: “Sao lại như vậy được? Công chúa bây giờ nhờ oai đức của Phật, đã thay hình đổi dạng xinh đẹp như tiên nga, chẳng còn xấu xí như trước nữa.”

Vua nghe rồi chưa tin là thật, liền truyền xa giá đến thăm con gái ngay khi ấy. Gặp con rồi, thấy quả thật như lời người chồng nói, trong lòng vua vừa mừng vui, lại vừa nghi ngại. Vua liền truyền quân chuẩn bị xa giá, cùng với công chúa đi đến chỗ Phật.

Đến nơi, vua lễ bái Phật rồi quỳ xuống bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Không biết công chúa trước đây tạo nghiệp thiện ác như thế nào, mà nay tuy sinh vào hoàng tộc lại phải thọ thân xấu xí? Xin đức Thế Tôn từ bi dạy cho được biết.”

Phật bảo: “Ngươi hãy chú tâm lắng nghe, ta sẽ vì ngươi mà phân biệt giảng nói. Về thuở quá khứ cách đây đã vô số kiếp, xứ Ba-la-nại có vị trưởng giả giàu có vô cùng. Trưởng giả ấy thường thỉnh một vị Phật Bích-chi đến nhà cúng dường, lễ bái. Phật Bích-chi ấy dung mạo cực kỳ xấu xí, thân thể thô kệch khó coi.

Ông trưởng giả có người con gái nhỏ, thấy Phật Bích-chi dung mạo xấu xí thì sinh lòng khinh miệt, dùng những lời nặng nề, thô bỉxúc phạm.

Vị Phật Bích-chi ấy vẫn cứ đến thọ nhận sự cúng dường của ông trưởng giả rất lâu. Đến khi ngài sắp nhập Niết-bàn, mới dùng thần thông bay lên hư không, hiện đủ mười tám phép biến hóa, đi đứng nằm ngồi trên không trung, tự tại không ngăn ngại, khiến cho cả nhà ông trưởng giả ấy đều được chứng kiến. Xong rồi, ngài mới từ trên hư không mà hạ xuống nơi nhà ông trưởng giả.

Ông trưởng giả thấy vậy thì vui mừng, hoan hỷ lắm. Riêng cô con gái tự sinh lòng hổ thẹn, hối trách, liền quỳ xuống trước Phật Bích-chichí thành cầu xin sám hối.”

Phật lại dạy rằng: “Cô con gái nhà trưởng giả, thuở ấy khinh miệt, xúc phạm vị Phật Bích-chi, ngày nay thọ thân làm công chúa xấu xí đó. Tuy nhiên, nhờ phước đức cúng dường, nên thường được sinh vào nhà quyền quý, giàu sang, chẳng chịu sự khổ đói thiếu. Lại nhờ biết chí thành sám hối lỗi lầm, nên nay được gặp ta cứu cho thoát khổ.”

Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc và quần thần, chúng dân, nghe Phật thuyết nhân duyên nghiệp báo của vị công chúa xấu xí ấy rồi, tâm ý liền khai mở, có người đắc quả Tu-đà-hoàn, có người đắc quả Tư-đà-hàm, có người đắc quả A-na-hàm, có người đắc quả A-La-hán, lại có nhiều người phát tâm cầu quả Phật Bích-chi, cũng có người phát tâm cầu quả vô thượng Bồ-đề.

Các vị tỳ-kheo nghe Phật thuyết nhân duyên này xong thảy đều vui mừng tin nhận.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33147)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6524)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11250)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30391)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30426)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7965)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12161)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12236)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11583)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12789)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34724)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9830)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52244)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10727)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10494)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10697)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10450)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13061)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16248)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21815)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9601)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7107)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10374)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12723)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12763)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16212)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16512)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13838)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16563)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12098)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13789)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14305)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9181)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11732)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11250)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16285)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14328)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16187)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12684)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12072)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11789)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15650)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11498)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14014)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12000)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12611)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 14983)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11950)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13119)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14517)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20662)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13201)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10928)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20679)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14338)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20350)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17636)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14005)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31849)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12009)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant