Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05. Nghi lễ trao y Kathina của chư Tăng

29 Tháng Mười 201200:00(Xem: 6746)
05. Nghi lễ trao y Kathina của chư Tăng

LỄ DÂNG Y KATHINA

Tỳ khưu Hộ Pháp

NGHI LỄ TRAO Y KATHINA CỦA CHƯ TĂNG

Theo truyền thống của chư Tỳ khưu Tăng tại nước Thái Lan, tất cả chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ xong tại ngôi chùa ấy, và có thí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng đã thọ nhận y kathina của thí chủ xong, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đều tụ họp tại sīmā. Trước tiên, chọn một vị Tỳ khưu biết đầy đủ 8 chi pháp xứng đáng thọ nhận tấm y kathina của chư Tăng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, đúng theo luật mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư Tỳ khưu Tăng.

Chư Tỳ khưu Tăng thỉnh 2 vị luật sư làm lễ trao y kathina của chư Tăng, nghi lễ theo tuần tự như sau:

1- Apalokanakamma: Việc Tường Trình

Vị Tỳ khưu luật sư thứ nhất tường trình y kathina giữa chư Tỳ khưu Tăng đang tụ họp tại sīmā như sau:

LS1: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ, y kathina cùng với các thứ vật dụng này của những thí chủ, người thay mặt là........................ [31] cùng với các bà con, bạn bè là những người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, mong tạo phước thiện ba-la-mật, gieo duyên lành để mong chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài. Cho nên những thí chủ ấy đã cùng nhau làm lễ dâng y kathina cùng với các thứ vật dụng này đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt trong 3 tháng mùa mưa tại ..............(tên chỗ an cư nhập hạ)

Y Kathina này đã phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống giữa chư Tỳ khưu Tăng, không phải dành riêng cho một vị Tỳ khưu nào cả.

Đức Phật cho phép chư Tỳ khưu Tăng chọn một vị Tỳ khưu biết đầy đủ 8 chi pháp, để xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Chọn lựa đặc biệt ưu tiên cho vị Tỳ khưu nào có y rách, y cũ hoặc bậc Đại trưởng lão cao hạ nhất, là bậc có giới đức trong sạch, có hiểu biết đầy đủ 8 chi pháp để xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Vậy bây giờ tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng nhận xét thấy vị Tỳ khưu nào xứng đáng, kính xin quý Ngài cho phép dâng tấm y kathina của chư Tăng này đến vị Tỳ khưu ấy.

2- Giới Thiệu Vị Tỳ khưu Thọ Y Kathina:

LS2: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ: Con xét thấy vị Đại đức Tissa[32] là bậc xứng đáng làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Nếu vị Tỳ khưu nào không chấp thuận, xin phát biểu lên giữa chư Tăng. (ngừng một lát)

Nếu chư Tỳ khưu Tăng đều chấp thuận, kính xin quý Ngài nói lên lời hoan hỷ: Sādhu! Sādhu! Sādhu!

(Sau khi chư Tỳ khưu Tăng đã chấp thuận bằng lời “sādhu” vị Tỳ khưu luật sư thứ nhất nói tiếp).

LS1: Kính bạch chư Tỳ khưu Tăng được rõ: Chư Tỳ khưu Tăng đã chấp thuận dâng y kathina đến Đại đức “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina, không phải bằng lời apalokanakamma, mà phải bằng cách hành Tăng sự Ñattidutiyakammavācā đúng theo luật của Đức Phật đã ban hành, chúng con xin phép hành Tăng sự bây giờ.

Hành Tăng Sự Trao Y Kathina

Ví dụ: Vị Tỳ khưu được chọn thọ y kathina có đặt tên là Đại đức Tissa, thì pháp hành tăng sự sẽ tụng như sau:

- Ñatti:

Suṇātu me Bhante Saṃgho, idaṃ Saṃghassa kathinacīvaraṃ[33] uppannaṃ. Yadi Saṃghassa pattakallaṃ, Saṃgho imaṃ kathinacīvaraṃ Tissassa” bhikkhuno dadeyya kathinaṃ attharituṃ. Esā ñatti.

- Kammavācā:

Suṇātu me Bhante Saṃgho, idaṃ Saṃghassa kathinacīvarạm uppannaṃ, saṃgho imaṃ kathinacīvaraṃ “Tissassa” bhikkhuno deti kathinaṃ attharituṃ.

Yassāyasmato khamati, imassa kathinacīvarassa “Tissassa” bhikkhuno dānaṃ kathinaṃ attharituṃ. So tuṇhassa, yassa nakkhamati so bhāseyya.

Dinnaṃ idaṃ Saṃghena kathinacīvaraṃ “Tissassa” bhikkhuno kathinaṃ attharituṃ. Khamati saṃghassa, tasmā tuṇhī. Evametaṃ dhārayami.

(Kathinatthāra kammavācā niṭṭhitā).

Ý nghĩa:

Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe rõ lời tuyên ngôn của con. Y kathina của chư Tăng đã được phát sinh, nếu việc hành Tăng sự hợp thời đối với chư Tăng, xin chư Tăng dâng y kathina này đến Tỳ khưu “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina. Đó là lời tuyên ngôn. Kính bạch quý Ngài đượcrõ.

Kính bạch chư Đại đức Tăng, kính xin chư Tăng nghe lời thành sự ngôn của con. Y kathina của chư Tăng đã phát sinh, chư Tăng dâng y kathina này đến Tỳ khưu “Tissa”, để làm lễ thọ y kathina.

Lễ dâng y kathina của chư Tăng đến cho Tỳ khưu “Tissa” để làm lễ thọ y kathina, vị Tỳ khưu nào hài lòng với việc này, xin hãy ngồi im lặng, vị nào không hài lòng, xin phát biểu lên giữa chư Tăng.

Chư Tăng đã dâng y kathina này đến Tỳ khưu, “Tissa” để làm lễ thọ y kathina, chư Tăng đều hài lòng chấp nhận, vì vậy, nên ngồi im lặng. Con xin ghi nhận trạng thái hài lòng bằng cách im lặng ấy.

(Hành tăng sự thọ y kathina xong).

Sau khi tụng xong Ñattidutiyakammavācā, vị Tỳ khưu luật sư thay mặt chư Tăng dâng tấm y kathina đến vị Đại đức Tissa.

 Nhận tấm y kathina xong, vị Đại đức Tissa sẽ làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Nghi Thức Làm Lễ Thọ Y Kathina

Nếu có Tam y: tấm y saṃghāṭi, tấm y uttarāsaṅga, tấm y antaravāsaka, thì vị Tỳ khưu chỉ chọn 1 tấm y trong 3 tấm y ấy mà thôi, để làm lễ thọ y kathina.

1- Nếu chọn tấm y saṃghāṭi (tấm y 2 lớp) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:

1. 1- Làm dấu tấm y saṃghāṭi: làm dấu : Kappabinduṃ karomi, làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y saṃghāṭi.

1. 2- Xả tấm y saṃghāṭi cũ của mình.

“Imaṃ saṃghāṭiṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y saṃghāṭi
cũ này).

1. 3- Nguyện tấm y saṃghāṭi mới của chư Tăng.

“Imaṃ saṃghāṭiṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y saṃghāṭi mới này).

1. 4- Làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y saṃghāṭi.

“Imāya saṃghāṭiyā kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina với tấm y saṃghāṭi này)

(Lễ thọ y kathina bằng tấm y saṃghāṭi xong).

2- Nếu chọn tấm y uttarāsaṅga (y vai trái) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:

2. 1- Làm dấu tấm y uttarāsaṅga: làm dấu: kappabinduṃ karomi, làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y uttarāsaṅga.

2. 2- Xả tấm y uttarāsaṅga cũ của mình.

“Imaṃ uttarāsaṅgaṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y
uttarāsaṅga cũ này).

2. 3- Nguyện tấm y uttarāsaṅga mới của chư Tăng.

“Imaṃ uttarāsaṅgaṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y uttarāsaṅga mới này).

2. 4- Làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y uttarāsaṅga.

“Iminā uttarāsaṅgena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina với tấm y uttarāsaṅga này).

(Lễ thọ y kathina với tấm y uttarāsaṅga xong)

3- Nếu chọn tấm y antaravāsaka (y nội) để làm lễ thọ y kathina, thì nghi thức làm lễ thọ y kathina theo tuần tự như sau:

3. 1- Làm dấu tấm y antaravāsaka: làm dấu: Kappabinduṃ karomi, làm dấu vòng tròn “O” bằng con mắt con công bằng mực màu đen, hoặc màu xanh đậm, hoặc màu xám đậm ở bên góc chéo tấm y antaravāsaka.

3. 2- Xả tấm y antaravāsaka cũ của mình.

“Imaṃ antaravāsakaṃ paccuddharāmi”.
(Tôi xin xả tấm y
antaravāsaka cũ này).

3. 3- Nguyện tấm y antaravāsaka mới của chư Tăng.

“Imaṃ antaravāsakaṃ adhiṭṭhāmi”.
(Tôi xin nguyện tấm y antaravāsaka mới này).

3. 4- Làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y antaravāsaka.

“Iminā antaravāsakena kathinaṃ attharāmi”.
(Tôi xin làm lễ thọ y kathina
với tấm y antaravāsaka này).

(Lễ thọ y kathina với tấm antaravāsaka xong)

Nghi Lễ Anumodanā (hoan hỷ)

Sau khi đã thọ y kathina của chư Tăng xong, vị Đại đức Tissa mặc y chừa bên vai phải, ngồi chồm hổm ở giữa chư Tỳ khưu Tăng, chắp tay thỉnh mời chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng rằng:

Atthataṃ Āvuso (Bhante) Saṃghassa kathinaṃ dhammiko kathinatthāro anumodatha.

Thưa quý pháp hữu, lễ thọ y kathina của chư Tăng đã xong, lễ thọ y kathina hợp pháp rồi, xin quý vị đồng thanh nói lên lời hoan hỷ.

Thành phần chư Tỳ khưu đồng hoan hỷ

Theo Chú giải Luật tạng, bộ Mahāvagga dạy rằng:

Những Tỳ khưu có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng và được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina như sau:

- Tỳ khưu an cư suốt 3 tháng hạ trước và làm lễ pavāraṇā.

- Sadi an cư nhập hạ suốt 3 tháng hạ trước đủ 20 tuổi, được làm lễ thọ Tỳ khưu trong khi nhập hạ, vị tân Tỳ khưu được làm lễ pavāraṇā cùng với chư Tăng, được kể một hạ thứ nhất, có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina cùng với chư Tỳ khưu Tăng và được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina.

Tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ như sau:

- Atthataṃ Bhante (Āvuso) Saṃghassa kathinaṃ, dhammiko kathinatthāro anumodāma.

- Kính bạch Đại đức, lễ thọ y kathina của chư Tăng đã xong, lễ thọ y kathina hợp pháp rồi, chúng con xin đồng thanh nói lên lời hoan hỷ.

(Hoàn mãn xong nghi thức thọ y kathina của chư Tăng)

Thành phần Tỳ khưu không được hoan hỷ

- Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ trước, kể từ ngày 16 tháng 6, nhưng bị đứt hạ.

- Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ sau, kể từ ngày 16 tháng 7 đến 16 tháng 10.

- Tỳ khưu an cư suốt 3 tháng hạ trước, ở chùa khác đến tham dự lễ thọ y kathina.

- Tỳ khưu không nhập hạ.

Tất cả những Tỳ khưu trên không có quyền nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, và cũng không được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina.

Tất cả Sadi an cư suốt 3 tháng hạ với chư Tỳ khưu, không có quyền hành Tăng sự pavāraṇā, không làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, cũng không hành lễ nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, nhưng tất cả vị Sadi được phép hưởng phần quả báu phát sinh trong lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 57)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáo là quy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy y là Đức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(Xem: 65)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(Xem: 143)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 156)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 249)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 281)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 306)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 388)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 281)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 351)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 461)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 426)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 362)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 452)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 700)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 525)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 547)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 647)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 842)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 898)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 932)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 905)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 788)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 775)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 776)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 873)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 885)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 1006)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 777)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 670)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 776)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 877)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 790)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 783)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 902)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 931)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 889)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 932)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 965)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 956)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1151)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1017)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1744)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1116)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1253)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 993)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1267)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1171)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1183)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1348)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1646)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2100)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1151)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1409)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1148)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 1001)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1110)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1150)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1575)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant