Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Đoạn kết lễ dâng y Kathina

29 Tháng Mười 201200:00(Xem: 7081)
07. Đoạn kết lễ dâng y Kathina

LỄ DÂNG Y KATHINA

Tỳ khưu Hộ Pháp

ĐOẠN KẾT LỄ DÂNG Y KATHINA


Để thành tựu lễ thọ y kathina của chư Tăng, để chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, trải qua nhiều giai đoạn:

Giai đoạn đầu: Thí chủ làm lễ dâng y kathina

Thí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng (không phải đến cá nhân).

Giai đoạn thứ nhì: Hành tăng sự làm lễ trao y kathina của chư Tăng đến vị Tỳ khưu.

Chư Tỳ khưu Tăng phải có đủ từ 5 vị trở lên, tụ họp tại sīmā, tuyển chọn một vị Tỳ khưu xứng đáng. Chư Tỳ khưu Tăng thỉnh vị Tỳ khưu luật sư tụng Ñattidutiyakammavācā xong, trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu mà chư Tỳ khưu đã tuyển chọn để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Giai đoạn thứ ba: Lễ thọ y kathina của chư Tăng.

Vị Tỳ khưu thọ 1 trong 3 tấm y là tấm y saṃghāṭi hoặc tấm y uttarasaṅga hoặc tấm y antaravāsaka. Tấm y này gọi là tấm y kathina của chư Tăng. Sau khi thọ tấm y kathina của chư Tăng xong, vị Tỳ khưu ấy kính thỉnh tất cả chư Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.

Giai đọan thứ tư: Chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.

Tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, tất cả chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng, cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu của lễ kathina.

Nếu vị Tỳ khưu nào không nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì vị Tỳ khưu ấy không được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina.

Giai đoạn thứ năm: Phân chia y và vật dụng

Những thứ vật dụng cần thiết và những tấm y khác là quả báu phát sinh trong lễ dâng y kathina, được phân chia từ vị Đại Trưởng Lão cao hạ tuần tự xuống vị thấp hạ cho đến các vị Sadi, tất cả đều hưởng được quả báu phát sinh trong lễ dâng y kathina.

Vấn Đáp Về Lễ Dâng Y Kathina

Vấn: Trường hợp chỉ có 1 vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một nơi, vị Tỳ khưu ấy có thể thọ nhận y kathina của thí chủ được hay không?

Đáp: Trong trường hợp chỉ có 1 vị Tỳ khưu đã an nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một nơi, sau khi mãn hạ, vị Tỳ khưu ấy có thể thọ nhận y kathina của thí chủ được. Nhưng sau khi thọ nhận y kathina của thí chủ xong, ngay trong ngày hôm ấy, vị Tỳ khưu ấy nên đem tấm y kathina ấy đến một ngôi chùa có sīmā, thỉnh chư Tỳ khưu trong ngôi chùa ấy từ 4 vị Tỳ khưu trở lên, tụ họp tại sīmā để hành Tăng sự; thỉnh vị Tỳ khưu luật sư tụng Ñattidutiyakammavācā xong, trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu ấy. Vị Tỳ khưu ấy đem tấm y kathina trở về trong ngày hôm ấy, vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina đúng theo luật mà Đức Phật đã chế định. Sau khi làm lễ thọ y kathina xong, vị Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina, cho đến ngày rằm tháng 2, hết quả báu của kathina.

Như Đức Phật dạy trong Tạng Luật, bộ Mahāvagga rằng:

Idha pana bhikkhave bhikkhu eko vassaṃ vasati, tattha manussā ‘Saṃghassa demā’ ti cīvarāni denti. Anujānāmi bhikkhave, tasseva tāni cīvarāni yāva kathinassa ubbhārāya”.[35]

Ý nghĩa:

Này chư Tỳ khưu, trong nơi ấy, một Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Trong vùng ấy dân chúng làm lễ dâng y và bạch rằng: chúng con xin dâng những tấm y này đến chư Tăng.

Đức Phật dạy rằng:

“Này chư Tỳ khưu, Như Lai cho phép những tấm y ấy chỉ thuộc về Tỳ khưu ấy mà thôi, Tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu cho đến hết thời hạn quả báu của lễ kathina”.

Trong Chú giải dạy rằng:

Vị Tỳ khưu ấy mang tấm y kathina đến thỉnh chư Tỳ khưu Tăng từ 4 vị trở lên tụ họp hành Tăng sự tại sīmā, thỉnh vị Tỳ khưu luật sư tụng Ñattidutiyakammavācā xong rồi trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu ấy. Vị Tỳ khưu ấy trở về nơi mình đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, Ngài làm lễ thọ y tấm y kathina xong, sẽ hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina cho đến ngày rằm tháng 2, hết quả báu của kathina.

Vấn: Trường hợp nếu có 2 vị Tỳ khưu, hoặc 3 vị Tỳ khưu, hoặc 4 vị Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa; chư Tỳ khưu ấy đã thọ nhận y kathina của thí chủ xong rồi, thì phải hành Tăng sự như thế nào?

Đáp: Hành Tăng sự lễ thọ y kathina, Đức Phật chế định chư Tỳ khưu có ít nhất 5 vị, còn nhiều không hạn định, hành Tăng sự như sau:

Nếu có 2 vị Tỳ khưu đã thọ nhận y kathina xong rồi, thì ngay trong ngày hôm ấy, cần phải thỉnh thêm ít nhất 3 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa khác đến, để cho đầy đủ chư Tăng hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā, trao tấm y kathina cho một vị Tỳ khưu nào xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn 1 vị Tỳ khưu hành lễ nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.

Nếu có 3 vị Tỳ khưu đã thọ nhận y kathina xong rồi, thì ngay trong ngày hôm ấy, cần phải thỉnh thêm ít nhất 2 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa khác đến, để cho đầy đủ chư Tăng hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā, trao tấm y kathina cho một vị Tỳ khưu nào xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn 2 vị còn lại hành lễ đồng thanh nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.

Nếu có 4 vị Tỳ khưu đã thọ nhận y kathina xong rồi, thì ngay trong ngày hôm ấy, cần phải thỉnh thêm ít nhất 1 vị Tỳ khưu từ ngôi chùa khác đến, để cho đầy đủ chư Tăng hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā, trao tấm y kathina cho một vị Tỳ khưu nào xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn 3 vị còn lại hành lễ đồng thanh nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina.

Những chư Tăng khách không có quyền nói lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, và cũng không có quyền hưởng quả báu của kathina.

Chư Tỳ khưu và các Sadi cùng an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại ngôi chùa ấy. Nếu có vị Sadi nào đủ 20 tuổi trong khi đang an cư nhập hạ, thì vị Sadi ấy được chư Tỳ khưu Tăng làm lễ nâng lên thọ Tỳ khưu, vị tân Tỳ khưu này có quyền hành lễ Pavāraṇā cùng với chư Tỳ khưu Tăng, và được phép tham dự hành lễ thọ y kathina của chư Tăng, cũng hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina như chư Tỳ khưu. Vị tân Tỳ khưu này có 1 hạ đầu tiên.

Vấn: Những hạng người nào có thể làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng được?

Đáp: Trong Chú giải Tạng Luật dạy rằng:

“Yena kenaci devena vā manussena vā pañcannaṃ vā sahadhammikānaṃ aññatrena dinnaṃ vaṭṭati”.[36]

Ý nghĩa:

Chư thiên hoặc phạm thiên hoặc nhân loại hoặc 5 pháp hữu đồng phạm hạnh đó là Tỳ khưu, hoặc Tỳ khưu ni, hoặc tu nữ tập sự (sikkhamānā), hoặc Sadi, hoặc Sadi ni. Hạng nào cũng có thể làm lễ dâng y kathina được.

Thật ra, điều kiện để thành tựu lễ thọ y kathina, để tất cả chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina cho đến ngày rằm tháng 2, hết thời hạn quả báu của kathina. Thí chủ làm lễ dâng 1 tấm y saṃghāṭi hoặc 1 tấm y uttarasaṅga hoặc 1 tấm y antaravāsaka, đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại một ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hay hang động nào đó. Tất cả chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn một vị Tỳ khưu hiểu biết rõ 8 chi pháp xứng đáng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, chư Tỳ khưu Tăng còn lại đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì tất cả chư Tỳ khưu được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu của kathina.

Nếu thí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm làm lễ dâng chỉ có 1 tấm y trong tam y gọi là y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, thì chỉ có 1 vị Tỳ khưu được chư Tỳ khưu Tăng tuyển chọn làm lễ thọ y kathina của chư Tăng bằng 1 tấm y ấy, còn lại các vị Tỳ khưu khác đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng thì được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina trong thời vị lai cho đến ngày rằm tháng 2. Trong buổi lễ dâng y kathina này, ngoại trừ vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina ra, còn lại các vị Tỳ khưu khác chưa hưởng được tấm y quả báu phát sinh trong buổi lễ dâng y kathina đến chư Tăng.

Nếu thí chủđức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có tác ý thiện tâm làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa ấy, ngoài 1 tấm y kathina ra, còn cúng dâng nhiều tấm y, nhiều thứ vật dụng cần thiết khác. Cho nên, sau khi một vị Tỳ khưu đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, thì tất cả chư Tỳ khưu Tăng không những hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng, trong thời vị lai cho đến ngày rằm tháng 2; mà còn ngay hiện tại, trong buổi lễ dâng y kathina này, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đều có hưởng được phần quả báu phát sinh trong buổi lễ dâng y kathina này đó là tấm y và các thứ vật dụng cần thiết khác,... thì tất cả chư Tỳ khưu được thuận lợi trong sự duy trì sinh mạng, để lo phận sự học pháp học Phật giáo, hành pháp hành Phật giáo, hầu mong duy trì Phật giáo được trường tồn lâu dài trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến tất cả chúng sinh nhất là chư thiênnhân loại.

“Sādhu! Sādhu! Anumodāma”.
“Lành thay! Lành thay! Chúng tôi xin hoan hỷ!”

“Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ,
Khippameva samajjhatu”

“Điều mong ước, ý nguyện của chúng con,
Cầu mong sớm được thành tựu như ý”

Mùa an cư nhập hạ Pl. 2549
Núi rừng Viên Không,
Xã Tóc Tiên, huyện Tân Thành,
Tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

-ooOoo-


[1] Tạng luật Thái gọi xứ Patheyya. Nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pāveyya đều là bậc Thánh Hữu Học (bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai) vốn là 30 Hoàng tử huynh đệ cùng phụ hoàng với Đức vua Pasenadi Kosala.

[2] Một do tuần khoảng 20 cây số.

[3] Xứ Ấn Độ mỗi năm có 3 mùa: Mùa mưa, mùa lạnh và mùa nóng; mỗi mùa có 4 tháng.

[4] Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka.

[5] Chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga, Kathinakkhandhaka.

[6] Chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga, Kathinakkhandhaka.

[7] Muparipaṇṇasa, kinh Dakkhināvibhaṅgasutta.

[8] Muparipaṇṇasa, kinh Dakkhināvibhaṅgasutta.

[9] Bộ Apadāna, Buddhāpadāna pubbakammapiloti.

[10] Bộ Jātaka, phỏng theo tích Ummānandījātaka.

[11] Bộ Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, sự tích Cūḷekasāṭaka-brahmaṇavatthu.

[12] Dhammapadagāthā số 116.

[13] Bộ Apādāna, sự tích Pilindavacchatherāpādāna.

[14] Tipiṭakapakiṇṇakadīpanī.

[15] Soḷasiṃ còn có nghĩa 1 phần 256.

[16] Aṅguttaranikāya, phần 5 chi, kinh Sappurisadānasutta.

[17] Tên chỗ ở mà chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ.

[18] Tên ngôi chùa đang làm lễ. Ở đây ví dụ núi rừng Viên Không “Viên Không araññe”, hoặc Tổ đình Bửu Long thì đọc “Bửu Long ārāme”

[19] Tên ngôi chùa đang làm lễ. Ở đây ví dụ núi rừng Viên Không, hoặc tại Tổ đình Bửu Long.

[20] Hatthapāda là khoảng cách từ người thí chủ đến chỗ ngồi của vị Đại đức 2 cùi tay và 1 gang, khoảng 1 mét.

[21] Chú ý: Để buổi lễ thọ y kathina được thành tựu, tấm y kathina mà thí chủ chưa kính dâng đến tận tay của vị Đại Trưởng Lão. Tỳ khưu không được đụng chạm đến tấm y kathina ấy và cũng không được phép dời tấm y kathina ấy sang chỗ khác. Nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý đụng chạm đến tấm y kathina ấy, vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới (durupaciṇṇadukkaṭa). Và nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý dời tấm y kathina sang chỗ khác, vị tỳ khưu ấy bị phạm giới (uggahitakadukkaṭa) tấm y kathina ấy không hợp theo luật. Dù thí chủ dâng tấm y kathina ấy đến chư Tỳ khưu tăng, nhưng vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng không thành tựu, bởi vì tấm y kathina không còn hợp theo luật. (căn cứ theo điều giới Dantaponasikkhāpada).

[22] Chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandha.

[23] Chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandha.

[24] Vinayapiṭaka, bộ Parivāra, phần Pubbakaraṇanidānādivibhāga.

[25] Vinayapiṭaka, Bhikkhunīvibhaṅga, dasamasikkhapāda.

[26] Bhikkhupātimokkha, phần Pācittiya, điều giới thứ 46.

[27] Bhikkhupātimokkha, phần nisaggiya pācittiya, điều giới thứ 2.

[28] Bhikkhupātimokkha, phần Pācittiya, điều giới thứ 32.

[29] Bhikkhupātimokkha, phần nisaggiya pācittiya, điều giới số 1.

[30] Vinayapitaka, bộ Cūlavagga, phần Sangitinidāna.

[31] Tên thí chủ chính của lễ dâng y kathina.

[32] Tên vị Đại Đức được giới thiệu để thọ y kathina, ví dụ: Đại Đức Tissa.

[33] Kathinacīvaram: Y đã may sẵn để làm lễ thọ kathina. Kathinadussa: Vải để may y làm lễ thọ kathina.

[34] Gahapaticīvara là y có chủ, còn paṃsukūlacīvara là y may bằng các tấm vải dơ, những tấm vải này không có chủ. Khi biết rõ những tấm vải này không có chủ vị Tỳ khưu tự mình có thể lượm những tấm vải ấy đem về giặt cho sạch sẽ, rồi may thành y mặc, mà không cần có thí chủ dâng tận tay đúng theo luật.

[35] Vinayapiṭaka, Bộ Mahāvagga, phần Cīvarakkhandhaka.

[36] Chú giải Tạng Luật, Chú giải bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 55)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáo là quy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy y là Đức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(Xem: 62)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(Xem: 143)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 156)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 249)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 280)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 306)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 386)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 281)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 351)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 458)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 426)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 362)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 452)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 699)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 525)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 547)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 647)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 840)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 898)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 932)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 905)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 788)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 774)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 776)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 873)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 885)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 1006)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 777)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 670)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 776)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 877)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 788)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 783)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 902)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 930)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 889)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 932)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 965)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 956)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1151)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1017)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1743)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1116)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1252)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 993)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1267)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1171)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1182)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1348)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1645)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2099)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1150)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1409)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1148)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 1001)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1110)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1150)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1575)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant