Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Nhận xét về lễ dâng y Kathina

29 Tháng Mười 201200:00(Xem: 6923)
06. Nhận xét về lễ dâng y Kathina

LỄ DÂNG Y KATHINA

Tỳ khưu Hộ Pháp

NHẬN XÉT VỀ LỄ DÂNG Y KATHINA


Lễ dâng y kathina thuộc về phước thiện bố thí rất đặc biệt hơn tất cả mọi phước thiện bố thí khác, bởi vì có những điểm đặc biệt như:

- Thí chủ: Thí chủ làm lễ dâng y kathina là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ sáng suốt, hiểu rõ phước thiện đặc biệt của lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, hiểu rõ quả báu đặc biệt của phước thiện dâng y kathina đến chư Tăng. Cho nên, họ biết tìm chỗ ở mà chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, để xin chư Tỳ khưu Tăng cho phép họ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng tại nơi ấy.

- Vật thí: Chỉ có 1 trong 3 tấm y đó là tấm y saṃghāṭi hoặc tấm y uttarasaṅga hoặc tấm y antaravāsaka mà thôi. Còn những tấm y khác không gọi là y kathina mà gọi là những tấm y quả báu phát sinh trong lễ dâng y kathina.

- Thời gian: Thời gian làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng bắt đầu từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10 (âm lịch) trong vòng 1 tháng.

Ngoài thời gian hạn định này, thí chủ có thể làm phước thiện dâng nhiều bộ y đến chư Tỳ khưu Tăng, nhưng không gọi là lễ dâng y kathina.

- Chỗ ở: Là nơi mà chư Tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa kể từ ngày 16 tháng 6 cho đến sáng ngày 16 tháng 9. Tại nơi ấy, nếu có thí chủ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, thì chư Tỳ khưu Tăng được phép thọ nhận y kathina của thí chủ chỉ một lần duy nhất mà thôi. Chư Tỳ khưu Tăng làm lễ thọ y kathina xong, và hành lễ đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ kathina của chư Tăng, mỗi vị Tỳ khưu hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina suốt 5 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu kathina.

Nếu chư Tỳ khưu Tăng không làm lễ thọ y kathina, thì mỗi vị Tỳ khưu hưởng đặc ân 5 quả báu chỉ có 1 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến hết ngày rằm tháng 10 mà thôi.

- Tính chất của tấm y kathina: Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý, do đại thiện tâm hợp với trí tuệ trong sáng của người thí chủ, hoàn toàn không do một vị Tỳ khưu nào gián tiếp hay trực tiếp động viên khuyến khích thí chủ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng.

Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý như vậy, khi người thí chủ làm lễ kính dâng đến chư Tỳ khưu Tăng, một vị Đại Trưởng Lão thay mặt chư Tỳ khưu Tăng thọ nhận tấm y kathina ấy, rồi đem trình giữa chư Tỳ khưu Tăng. Chư Tỳ khưu Tăng tụ họp tại sīmā, thỉnh vị Đại đức luật sư tụng Ñattidutiyakammavācā trao tấm y kathina cho vị Tỳ khưu xứng đáng để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng. Vị Tỳ khưu ấy làm lễ thọ kathina với tấm y ấy. Như vậy, lễ thọ y kathina của chư Tăng được thành tựu; tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng, tất cả mọi vị Tỳ khưu hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina suốt 5 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu kathina.

- Quả báu của lễ thọ y kathina: Quả báu của lễ thọ y kathina thật đặc biệt hơn các quả báu của phước thiện bố thí khác là có tính chất bền vững lâu dài đối với chư Tỳ khưu hưởng đặc ân 5 quả báu của kathina suốt 5 tháng kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến hết ngày rằm tháng 2.

Còn đối với thí chủ, phước thiện dâng y kathina cho quả báu vô lượng kiếp.

Trong kiếp tử sanh luân hồi, nếu phước thiện dâng y kathina này cho quả tái sinh làm người, người ấy sẽ là người có chánh kiến, giàu sang phú quý hơn người, có của cải được bền vững lâu dài, tránh khỏi những tai họa do lửa cháy, nước lụt cuốn trôi, do kẻ trộm cướp chiếm đoạt, phi pháp, v.v...

Nếu phước thiện dâng y kathina này cho quả tái sinh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, sẽ là vị thiên nam hoặc thiên nữ có nhiều oai lực, có hào quang sáng ngời hơn các chư thiên khác, hưởng sự an lạc cao quý trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

Phước thiện dâng y kathina này rất lớn lao vô lượng, cho nên người thí chủ thành tâm phát nguyện như thế nào, chắc chắn sẽ được toại nguyện như thế ấy. Ví dụ: Một người giàu sang phú quý nhất trong đời này, họ muốn có được thứ gì trong đời, muốn ăn món gì trong đời, v.v... đối với họ không phải vấn đề khó, có phải không? Cũng như vậy, người thí chủ đã làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng xong rồi, người ấy có phước thiện dâng y kathina đến vô lượng, cho nên họ phát nguyện như thế nào, chắc chắn sẽ được toại nguyện như thế ấy.

Thật vậy, như tích tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī, là một cô bé gái con nhà nghèo khổ làm thuê ở mướn gần 3 năm mới được 1 tấm vải choàng. Cô bé gái phát sinh đức tin trong sạch kính dâng tấm vải choàng mới ấy đến vị Tỳ khưu trong thời kỳ Đức Phật Kassapa. Cô thành tâm phát nguyện rằng:

Kính bạch Ngài, trong vòng tử sinh luân hồi, con nguyện kiếp nào cũng là người nữ xinh đẹp nhất, làm cho người nam nào nhìn thấy con, họ đều bị mê hồn, mất trí không còn biết mình nữa. Con sẽ là người phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần”.

Lời phát nguyện của cô đã toại nguyện cho đến kiếp chót, hậu thân của cô là Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī, bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama.

tiền kiếp của Đức Phật Gotama là một người đàn ông, nhìn thấy vị Tỳ khưu hành pháp hành đầu đà sống trong rừng, Đức Bồ Tát phát sinh đức tin trong sạch dâng một tấm vải cũ đến vị Tỳ khưu ấy rồi phát nguyện muốn trở thành một Đức Phật Chánh Đẳng Giác; hậu thân của Đức Bồ Tát kiếp chót trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giácdanh hiệu Đức Phật Gotama của chúng ta.

Làm phước thiện bố thí tấm vải choàng mới đến vị Tỳ khưu của cô gái nghèo khó, tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī; làm phước thiện bố thí tấm vải cũ đến vị Tỳ khưu của người đàn ông, tiền kiếp của Đức Phật Gotama; chính nhờ phước thiện bố thí ấy đã dẫn đến cho quả kiếp chót đều được toại nguyện như thế, huống gì người thí chủ làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, phước thiện dâng y kathina ấy chắc chắn sẽ cho quả báu cao quý biết dường nào nữa!

Nhân dịp làm phước thiện dâng y kathina này, là phước thiện cao quý vô lượng, những thí chủ nào thành tâm phát nguyện như thế nào, những thí chủ ấy chắc chắn sẽ được toại nguyện như thế ấy.

Nếu những người nữ thí chủ, cảm thấy nhàm chán kiếp người nữ, có ý nguyện muốn trở thành người nam, thì những nữ thí chủ ấy thành tâm phát nguyện rằng:

Idaṃ no kathinadānakusalaṃ purisattabhāvapaṭilābhāya saṃvattatu”.
(Do năng lực phước thiện dâng y kathina này của chúng con, xin sinh quả kiếp sau được trở thành người nam cao quý).

Thật ra, chỉ có Đức Bồ Tát, sau khi đã được thọ ký rồi, chắc chắn Đức Bồ Tát không bao giờ trở thành người nữ. Ngoài Đức Bồ Tát ra, các hạng người khác, có khi tái sinh làm người nam, có khi tái sinh làm người nữ, tùy theo thiện nghiệp cho quả.

Dù là người nam hoặc người nữ, còn tử sinh luân hồi trong cõi người, cõi trời dục giới, cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới cũng vẫn còn có khổ. Cho nên ý nguyện giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới, đó là nguyện vọng cao cả nhất.

Như vậy, tất cả mọi người thí chủ nên phát nguyện rằng:

Idaṃ me kathinadānakusalaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu”.
(Do phước thiện dâng y kathina thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo, Arahán Thánh QuảNiết Bàn, diệt đoạn tuyệt được mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.)

Khi phát nguyện mong chứng đạt đến mục đích cứu cánh như vậy, nếu chưa chứng đạt đến mục đích cứu cánh Niết Bàn, còn tử sinh luân hồi trong tam giới. Khi thì thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, sẽ là người giàu sang phú quý, có trí tuệ sáng suốt, không say mê trong của cải tài sản ấy, dễ dàng đem của cải làm phước thiện bố thí đến cho mọi người, thậm chí có khả năng từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo, hoặc trở thành vị Đạo sĩ trong thời kỳ không có Phật giáo trên thế gian.

Hoặc khi thì thiện nghiệp cho quả tái sinh làm chư thiên trong cõi trời dục giới, tuy là một thiên nam hoặc thiên nữ, nhưng không say mê hưởng sự an lạc trong cõi trời ấy. Bởi vì mục đích cứu cánh của họ là Niết Bàn, không phải là sinh làm người hoặc làm chư thiên, nhưng khi họ chưa chứng đạt đến Niết Bàn, họ hưởng quả báu trong cõi người hoặc quả báu trong cõi trời. Thật ra, mục đích cứu cánh cuối cùng của họ là Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Những Điều Nên Biết Về Lễ Dâng Y Kathina

Vị Tỳ khưu nên thuyết pháp giảng giải cho các hàng Phật tử là bậc xuất gia Tỳ khưu, Sadi, và người tại giacận sự nam, cận sự nữ hiểu biết về:

- Sự thành tựu của lễ thọ y kathina và sự không thành tựu của lễ thọ y kathina.

- Phước thiện đặc biệt dâng y kathina và quả báu đặc biệt của phước thiện dâng y kathina.

Khi các hàng Phật tử hiểu rõ về phước thiện đặc biệt của lễ dâng y kathina, nên phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có trí tuệ sáng suốt, có nhận thức đúng đắn, rồi tự mình quyết định làm lễ dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng, mà không do một vị Tỳ khưu nào động viên khuyến khích làm lễ dâng y kathina.

Như vậy, tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, do đại thiện tâm hợp với trí tuệ đồng sanh với hỷ, không cần động viên của người thí chủ. (Somanassasahagataṃ ñaṇasampayutttaṃ asaṅkhārikaṃ).

Do đó, phước thiện dâng y kathina đặc biệt hơn các phước thiện bố thí khác. Cho nên tấm y kathina phải được tôn trọng tuyệt đối.

Tôn trọng tấm y kathina như thế nào?

Tấm y kathina là tấm y có chủ gọi là gahapaticīvara [34], khi người chủ chưa dâng tấm y đến chư Tỳ khưu Tăng, thì vị Tỳ khưu không được phép đụng chạm đến tấm y kathina.

- Nếu vị Tỳ khưu nào có tác ý đụng chạm đến tấm y kathina ấy (mà chưa dời chỗ) thì vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới gọi là durupaciṇṇadukkaṭa āpatti. (riêng vị Tỳ khưu ấy không thể sử dụng tấm y ấy được).

- Tấm y kathina mà thí chủ chưa được dâng đến chư Tăng. Nếu vị Tỳ khưu nào tác ý không chỉ đụng chạm tấm y kathina, thì vị Tỳ khưu ấy bị phạm giới gọi là uggahi-takadukkaṭa āpatti. Và tấm y kathina không còn hợp theo luật nữa. Cho nên, tất cả mọi Tỳ khưu không thể sử dụng tấm y kathina ấy được.

Tuy thí chủ làm lễ dâng tấm y kathina ấy đến chư Tỳ khưu Tăng, chư Tỳ khưu Tăng thọ tấm y kathina ấy, rồi trao cho một vị Tỳ khưu để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, nhưng lễ thọ y kathina ấy không thành tựu, và tất cả chư Tỳ khưu Tăng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng. Vì tấm y kathina ấy không còn hợp pháp theo luật do bởi vị Tỳ khưu đụng chạm và dời tấm y kathina sang chỗ khác, phạm giới uggahitakadukkaṭa.

Cho nên, tất cả chư Tỳ khưu không thể sử dụng tấm y kathina ấy được, thì làm sao vị Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina của chư Tăng thành tựu được.

(Căn cứ vào điều giới Dantaponasikkhāpada phần điều giới Pācittiya).

Khi các thí chủ long trọng làm lễ dâng y kathina, một thí chủ thay mặt toàn thể thí chủ đọc bài dâng y kathina đến chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa nào hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi, hay động nào xong; Người thí chủ thay mặt toàn thể thí chủ cung kính đem tấm y kathina đến gần chư Tỳ khưu Tăng khoảng cách 2 hắt tay và 1 gang (khoảng 1 mét) đúng theo luật, dâng đến chư Tỳ khưu Tăng. Vị Đại đức thay mặt chư Tỳ khưu Tăng tại ngôi chùa ấy hoặc chỗ ở ấy thọ nhận tấm y kathina của các thí chủ. Tấm y kathina ấy trở thành tấm y kathina của chư Tỳ khưu Tăng. Sau khi thọ nhận tấm y kathina của chư Tăng xong, Ngài Đại đức ấy đem tấm y kathina ấy vào trình giữa chư Tăng.

Tất cả chư Tỳ khưu Tăng không thể thọ y kathina của chư Tăng được. Đức Phật cho phép tất cả chư Tỳ khưu Tăng chọn một vị Tỳ khưu hiểu biết rõ 8 chi pháp xứng đáng, để làm lễ thọ y kathina của chư Tăng, còn tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng. Như vậy, gọi là chư Tỳ khưu Tăng thọ y kathina. Cũng như ngày uposatha hằng tháng, chư Tỳ khưu Tăng từ 4 vị trở lên tụ họp tại sīmā, một vị Tỳ khưu tụng Bhikkhupātimokkhasīla, chư Tỳ khưu ngồi nghe. Như vậy gọi là Saṃgha uposatha: Chư Tăng hành uposatha.

Sau khi đã chọn được một vị Tỳ khưu hiểu biết rõ 8 chi pháp xứng đáng, chư Tỳ khưu Tăng từ 5 vị trở lên tụ họp hành Tăng sự tại sīmā, thỉnh 1-2 vị Tỳ khưu tụng Ñattidutiyakammavācā trao tấm y kathina của chư Tăng cho vị Tỳ khưu mà chư Tỳ khưu Tăng đã chọn. Vị Tỳ khưu ấy thọ nhận y kathina của chư Tăng.

Sau đó, vị Tỳ khưu ấy làm lễ thọ y kathina của chư Tăng và kính thỉnh tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng. Tất cả chư Tỳ khưu đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng. Như vậy, tất cả chư Tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa ấy hoặc tại nơi ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu của lễ thọ y kathina của chư Tăng cho đến ngày rằm tháng 2, mới hết hạn quả báu của lễ kathina.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 58)
Bước đầu tiên để bước vào con đường Phật giáo là quy y Tam Bảo, và viên ngọc đầu tiên trong ba viên ngọc mà chúng ta tiếp cận để quy y là Đức Phật, Đấng Giác Ngộ.
(Xem: 65)
Đạo Phật là đạo của bi trí dũng. Đạo của trí tuệ, của chánh biến tri, và chánh tri kiến chứ không phải không thấy mà tin tưởng mù quáng.
(Xem: 143)
Phân biệt phước đức và công đức là cần thiết cho việc học và hành đạo Phật.
(Xem: 156)
Sơ quả hay Tu-đà-hoàn là quả vị Thánh đầu tiên mà người Phật tử có thể chứng đạt ngay hiện đời.
(Xem: 249)
Cuộc đời và công việc của Bồ tát được nói trong phần cuối đoạn Đồng tử Thiện Tài gặp đức Di Lặc.
(Xem: 281)
Trong khi các tín ngưỡng về nghiệp và tái sinh là phổ biến vào thời của Đức Phật,
(Xem: 306)
Đây là ba phạm trù nghĩa lý đặc trưng để bảo chứng nhận diện ra những lời dạy của đức Đạo sư một cách chính xác mà không
(Xem: 388)
Đi vào Pháp giới Hoa nghiêm là đi vào bằng bồ đề tâm thanh tịnh và được cụ thể hóa bằng nguyện và hạnh.
(Xem: 281)
Nhị đế là từ được qui kết từ các Thánh đế (āryasatayā) qua nhân quả Khổ-Tập gọi là Tục đế
(Xem: 351)
Quí vị không giữ giới luật có thể không làm hại người khác, nhưng thương tổn tự tánh cuả chính mình.
(Xem: 461)
Lầu các của Đức Di Lặc tượng trưng cho toàn bộ pháp giới của Phật Tỳ Lô Giá Na; lầu các ấy có tên là Tỳ Lô Giá Na Đại Trang Nghiêm.
(Xem: 426)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da Thức và Mạc Na Thức,)
(Xem: 362)
Tín ngưỡng Dược Sư với đại diện là thế giới Lưu ly nằm ở phương Đông mà nó tương tự với các cõi Tịnh độ khác, đều dùng việc
(Xem: 452)
Hai câu hỏi hiện lên trong đầu tôi khi nghĩ về giáo lý vô thường liên quan đến cuộc đời tôi.
(Xem: 701)
Lôgic học là một ngành học có mục đích xác định các quy tắc vận hành của tư duy để tìm kiếm sự thực.
(Xem: 525)
Trong quá trình hình thành và phát triển xã hội, con người luôn khát khao tìm cầu hạnh phúc, thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần.
(Xem: 547)
Tuệ là trí tuệ tức cái biết, thức là nhận thức cũng là cái biết. Cả hai đều là cái biết nhưng có đặc điểm khác nhau.
(Xem: 647)
Khái niệm Niết-bàn vốn thành hình cách đây hơn 2500 năm. Các học giả và các triết gia khác nhau
(Xem: 842)
Ở trên là hai câu đầu trong bài kệ Lục Tổ Huệ Năng khai thị nhân bài kệ của thiền sư Ngọa Luân. Câu chuyện được thuật lại trong Pháp Bảo Đàn Kinh, phẩm Cơ Duyên thứ 7.
(Xem: 898)
Chữ “Tăng đoàn” là một thuật ngữ tiếng Phạn, có nghĩa là “cộng đồng” và được sử dụng chủ yếu để chỉ những tín đồ đã xuất gia của Đức Phật,
(Xem: 932)
Tóm tắt: Phật giáotôn giáo được biết đến như một hệ thống triết học mang đậm chất tư duy, trí tuệ cùng giá trị đạo đức cao.
(Xem: 905)
Mỗi người hiểu về nghiệp theo mỗi kiểu khác nhau tùy vào nhận thức và trải nghiệm bản thân, nhưng phần lớn vẫn chịu ảnh hưởng của cách hiểu trong dân gian về khái niệm của từ này.
(Xem: 788)
Từ ngàn xưa cho đến thời điểm xã hội phát triển mạnh mẽ về mọi mặt như hiện nay, mặc dù nền văn minh có bước tiến bộ vượt bậc
(Xem: 775)
iáo lý Duyên khởi được xem như chiếc chìa khóa mở ra kho tàng pháp bảo Phật giáo, vì có thể giải quyết những vấn đề của khổ đau, cả sự sanh ra hay chết đi của con người.
(Xem: 776)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh tập thứ 14. Kinh văn số 550 gồm 12 quyển. Chữ Hán từ trang 865 đến trang 894, gồm tất cả 29 trang.
(Xem: 873)
Những nhu cầu của con người sinh học thì giản dị, khi đói chỉ mong được ăn, khi khát mong được uống, khi mệt mong được nằm,
(Xem: 885)
Khi thân thể tiều tụy chỉ còn da bọc xương, những khổ thọ chết người đều đã trải qua,
(Xem: 1006)
Trong quá trình thuyết giáo của đức Phật, những lời dạy của Ngài không được lưu giữ dưới dạng văn bản chữ viết
(Xem: 777)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 670)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào cho thích hợp với căn cơ của mình
(Xem: 776)
Trọng tâm của triết học Phật giáohọc thuyết nổi tiếng về tính không - rằng tất cả chúng sinhhiện tượng đều trống rỗng về bản chất hay bản chất cố hữu.
(Xem: 877)
Vô phân biệt được nói đến nhiều lần trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật.
(Xem: 790)
Theo lý Duyên Khởi của đạo Phật, tất cả vạn hữu vũ trụ được hình thành do yếu tố hòa hiệp của nhơn duyên và sẽ đi đến phân ly do duyên tan rã.
(Xem: 783)
Cuộc chiến đấu mới–Sau khi Đức Phật nhập diệt, hình bóng của ngài vẫn hiện ra trong hàng thế kỷ trong một hang động–một hình bóng rất lớn
(Xem: 902)
Như Nietzsche khuyên răn chúng ta hãy lại bắt đầu học làm mới bằng cách để ý đến những việc ‘tầm thường’ và sự vận hành của ‘thân’ để xác định
(Xem: 931)
Tôi nghĩ là làm một việc có lý khi bác bỏ tuyên bố của Nietzsche rằng đạo Phật là một dạng của ‘thuyết hư vô thụ động,’ rằng đạo Phật truyền dạy
(Xem: 889)
Đặt vấn đề có phải đạo Phật là một dạng của ‘Chủ thuyết hư vô thụ động’ có nghĩa là đặt vấn đề liệu summum bonum[1] của đạo Phật,
(Xem: 932)
Dù có nhiều tác phẩm đa dạng về Phật học thích dụng ở Châu Âu thời kỳ trước Nietzsche,
(Xem: 965)
Nhân ngày húy nhật của Hòa thượng Thích Trí Thủ, một trong những vị tông sư hoằng truyền luật học Phật giáo thời cận đại,
(Xem: 956)
Hành giả tu hành muốn mau đạt đến kết quả như mình mong muốn thì, điều kiện tiên quyết trước hết là chúng ta cần phải chọn lựa pháp môn nào
(Xem: 1152)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1017)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1744)
Xuất xứ của Bát Chánh Đạo có hai nguồn là nguồn từ Phật chứng ngộ mà thuyết ra và nguồn được kết tập lại từ các kinh điển
(Xem: 1116)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định.
(Xem: 1253)
Tôi kính lễ bái bậc Chánh giác, bậc tối thắng trong hết thảy các nhà thuyết pháp, đã thuyết giảng Duyên khởibất diệtbất sinh,
(Xem: 993)
Thay vì tìm hiểu nguồn gốc tại sao phải chịu luân hồi sinh tử, con người không ngừng tìm kiếm căn nguyên của vũ trụ vạn vật, nơi mình sinh ra;
(Xem: 1267)
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết
(Xem: 1171)
Danh từ nghiệp hay karma (skt.) được đề cập thường xuyên trong các luận giải về tư tưởng triết họctôn giáo Ấn-độ.
(Xem: 1183)
Tứ quả là bốn quả vị sai biệt của các bậc Thánh Thinh Văn thừa, tùy thuộc vào trình độ căn cơ của hành giả đã đạt được sau khi tu tập
(Xem: 1348)
Sau khi hoàng hậu Ma-da (Mayā) quá vãng, vua Tịnh Phạn (Suddhodana) tục huyền với Mahāpajāpatī Gotami và bà đã xuất gia
(Xem: 1646)
Kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Đức Phật ra đời vì một đại nhân duyên. Đó là khai thị cho chúng sanh liễu ngộ Phật tri kiến nơi mình”.
(Xem: 2100)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1151)
Các câu hỏi, không khác với câu khẳng định, dựa trên các giả định.
(Xem: 1409)
Đối với những người nhìn vào Phật giáo qua phương tiện tiếng Anh, việc thực hành lòng từ bi và sự xả ly có thể không tương thích với nhau,
(Xem: 1148)
Từ khi đức Phật xác lập: “Mọi vật đều vô thường, mọi vật đều vô ngã”, thường được diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).
(Xem: 1001)
Trong lịch sử Thiền Tông Việt Nam, Thiền sư Trần Thái Tông (1218-1277) được kể như một nhân vật vô cùng đặc biệt, với nội tâm giác ngộ cao siêu,
(Xem: 1110)
Trước đây qua giáo lý của Đức Phật chúng ta hiểu rằng Đạo Phật là đạo xây dựng trên nền tảng trí tuệ, tức dùng sự giác ngộ, hiểu biết
(Xem: 1150)
Thiền sư Trần Thái Tông (1218 -1277) một vị thiền sư siêu việt, ông vua anh minh, nhà tư tưởng lớn, một nhân cách cao cả.
(Xem: 1575)
Nhận thức rằng tất cả đều là giả tạm và cuộc đời là một nỗi khổ đau lớn, nên đức Phật mới đi tìm chân lýgiác ngộ chân lý.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant