Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài 17 - Các vấn đề của đời sống con người

22 Tháng Mười Hai 201100:00(Xem: 10322)
Bài 17 - Các vấn đề của đời sống con người

TÂM DIỆU MINH THƯỜNG TRỤ
[Bài 17]
Kalu Rinpoche
Các vấn đề của đời sống con người
Bản dịch Việt: Đặng Hữu Phúc
Bản Anh: Human Life and Its Problems

Những lạc thú của luân hồi
Giống như sương trên lá cỏ
Biến mất trong một chớp mắt
Đthành đạt
Tối thượngchân giải thoát
tu tập của các bồ tát.
Togme Sangpo, “Ba mươi bảy pháp tu tập của các bồ tát”.

blankTrong thế giới con người, đời sống có thể tương đối hạnh phúc, mặc dầu con người luôn luôn trải qua ba loại đau khổ và là chủ thể đối với nhiều vấn đề.

Ba loại đau khổ

Loại đau khổ thứ nhất thì hoàn toàn vi tế. Nó là đau khổ vốn sẵn có đối với tính cá biệtdo bởi những bất toàn và những giới hạn vốn sẵn có trong chính thực tế của tiến trình hiện hữu (the very fact of existing), thực tế duy nhất do kết hợp ngũ uẩn tạo thành một cá nhân.

Chúng ta đã thảo luận các uẩn này: sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Hữu tình thành lập bởi năm uẩn thì lệ thuộc nhân duyên và bất toàn. Sự lệ thuộc nhân duyên và những bất toàn đó tạo nên loại thứ nhất của đau khổ có tính bản chất đối với ngũ uẩn của tính cá biệt. Chúng có tính bản chất giống như bơ đối với sữa. Chỉ thuần do sự hợp thành của năm uẩn, nên chúng ta đều là chủ thể đối với hình thức vi tế của sự không thoả lòng. Tuy nhiên, loại đau khổ này thì quá vi tế không thể nhận thức về phương diện thực tế được, và, về nhiều phương diện, chúng ta còn không nhận biết về nó. Nó có thể được so sánh với một hạt bụi nhỏ bé trong bàn tay chúng ta: khi ta đạt được thật chứng ở phương diện tấn cấp mà đa số các hình thức thô của đau khổ đã được loại bỏ, thì loại đau khổ này mới hiện rõ hơn, và thế nên được nhận thức nhanh hơn, giống như một hạt bụi nhỏ đã nằm lọt trong mắt của chúng ta!

Bị ảnh hưởng bởi nhiều thành tố, tất cả các hình thức khác của đau khổ phát triển trên nền tảng của đau khổ thuộc tính cá thể.

Loại đau khổ thứ hai, có thể nhận thức được nhiều hơn, được gọi là đau khổ của biến dịch. Nó là một hình thức của đau khổ tiềm ẩn trong cái mà chúng ta thường xem nhưhạnh phúc, các lạc thú, và các tiện lợi, bất kể tinh thần hoặc thể chất. Nó thuộc về các tham ái, tham luyến, và vô thường. Nó là sự thất vọng hoặc không hạnh phúc được kinh nghiệm mỗi khi có thay đổi, thoái hóa hoặc mất mát những gì chúng ta vốn hài lòng, yêu thích.

Loại đau khổ thứ ba thì được nhận biết dễ dàng đó là đau khổ bởi vì nó gây ra đau đớnkhông hạnh phúc. Nó là đau khổ của đau khổ, gây nên bởi các đau đớn và các vấn đề làm cho đau khổ này đưa đến đau khổ khác trong đời sống hàng ngày.

Những loại đau khổ chính yếu của con người

Bốn loại chính của đau khổ ảnh hưởng đến con người: sinh, già, bệnh, và chết. Chỉ cần suy nghĩ về những điều này và nhận biết sáng tỏ về thực tại tính của chúng, sẽ giúp chúng tahội thông hiểu bản chất không thỏa mãn của sinh tử luân hồi hoặc hiện hữu tùy thuộc vào nhân duyên. Nhận biết sáng tỏ này sẽ cho chúng ta cơ hội, phương tiện giúp chúng ta tự do và cách tuyệt các tham luyến đối với hiện hữu bình thường và thế nên chúng ta nỗ lực tiến đến giải thoát.

Chúng ta đã nói về khổ đau của sinh trong trung hữu của sinh tới chết (bài 13).

Khổ đau gây ra bởi đau yếu bệnh tật thì thường không thể chịu đựng nổi. Chúng ta làm chủ thể cho các mệnh lệnh của các y sĩ và phải chịu những khảo sát y khoa nghiêm khắc, gắt gao (rigorous medical exams). Chúng ta thành ra tùy thuộckiệt sức khi làm theo những chỉ thị của họ. Chúng ta ngay cả không thể ngồi dậy trên giường, ăn hoặc uống, hoặc thoả mãn các ham muốn của chúng ta. Vào lúc cuối của ngày, chúng ta vẫn phải trải qua một đêm dài không thể dứt của đau đớn khủng khiếp và đau khổ.

Đau khổ của tuổi già thì cũng to lớn như thế. Thân hình chúng ta, có một thời ngay ngắn và mạnh mẽ rồi thành ra co cụm, lom khom, và chúng ta cần một cây gậy để nâng đỡ chúng ta. Tóc chúng ta đổi sang màu muối tiêu và rụng; chúng ta thành ra hói đầu và mất đi vẻ quyến rũ. Da chúng ta có thời mềm dịu như lụa Trung quốc, trở thành một đống nhăn nhúm, cũng giống như hoa sen hồng tươi ngay khi mới nở nhưng thành màu xám và nhăn nhúm khi héo úa tàn tạ. Sức mạnh của cơ thể suy tàn; bất kể đứng hay ngồi, đều thành mệt mỏi. Tâm thành ra suy nhượcchúng ta chẳng chút nào muốn khởi động bất cứ một hoạt động nào cả. Các cảm quan mất đi tính nhạy bén của chúng: mắt chẳng còn nhìn thấy rõ, tai chẳng thể nghe, mũi chẳng thể ngửi thấy mùi, lưỡi chẳng thể phân biệt được các vị, và xúc chạm không thấy vui thích. Kí ức không sáng tỏ; cái gì xảy ra tại một thời điểm thì bị quên mất vào thời điểm kế tiếp. Chúng ta không thể thích nghi; chúng ta cảm thấy mình không còn thuộc vào bất cứ nơi nào. Nhóm giao du không hoan nghênh, và chẳng ai nghĩ tới chúng ta ngoại trừ chuyện thương hại. Sự giàu sang của chúng ta trước đây giảm xuống, và thế lực của chúng ta cũng giảm luôn. Những gì chúng ta có thể làm cho cuộc đời đều chấm dứt, năng lực của chúng ta suy thoái và biến mất. Chúng ta nhận định rõ chỉ có một điều ở phía trước chúng ta: chết, và tâm niệm này làm suy nhược tinh thần chúng ta.

Đau khổ do chết gây ra đó là nỗi sợ làm hao mòn khô héo chúng ta, chúng ta hoàn toàn mất đi niềm vui và bị khốn khổ với bệnh tật. Miệng chúng ta đều khô, khuôn mặt có vẻ lo lắng kích động, tứ chi run rẩy không còn vận động được nữa. Chúng ta thành ra nhơ nhớp với nước bọt, mồ hôi, nước tiểu, và chất ói mửa, và trong sầu não khốn khổ chúng ta tạo nên những tiếng động khô khốc. Sau khi tất cả những cách cứu chữa cho chúng ta đều thất bại, các bác sĩ chấp nhận thua cuộc trong trường hợp của chúng ta. Những tưởng tượng kinh hãi sinh khởi trong tâm chúng ta, tạo nên sự khủng bốkinh hoảng. Thời điểm chúng ta ngừng thở, lúc đó miệng và hai lỗ mũi chúng ta mở rộng, chúng ta vượt ngoài thế giới này một cách hoàn toàn bối rối do cái chết đem đến. Lúc đó chúng ta đi vào cõi không được biết, chìm đắm trong cõi sâu thẳm, và bị biển lớn mang đi, bị càn quét bởi những gió nghiệp.

Ở thời điểm ra đi không thể tránh được, chúng ta phải bỏ lại đằng sau mọi thứ, buông bỏ giàu sang, tiện nghi, ảnh hưởng, gia cư, gia đình, và tấm thân qúy báu của chúng ta. Những giọt nhỏ mồ hôi hình thành trên khuôn mặt của chúng ta, và nhiều dấu hiệu của trung hữu của thời điểm chết biến hiện một cách thứ bậc. Sau những kinh nghiệm trung hữu này, chúng ta thọ lãnh tái sinh trong một cõi phù hợp với nghiệp của chúng ta.

Cộng thêm vào bốn nguồn chính của đau khổ, con người tất yếu cũng kinh nghiệm tiến trình phải biệt li -- bởi vì những biến cố của đời sống hoặc cái chết – cách tuyệt những người được yêu mến: cha, mẹ, con cái, cháu chắt, phối ngẫu, tất cả những người yêu mến và quyến luyến. Con người cũng còn phải chịu đựng với những hữu tình gây tổn hại cho họ, chiếm đoạt các thứ họ có, và bị chế ngự, trấn áp, bị lạm dụng, bị đánh đập, bị giết, hoặc bị đem ra đày đọa cho biết tay (put on trial) .Trong vai trò con người, chúng ta cũng chịu đựng đau khổ do không đạt được những gì chúng ta muốn và không có khả năng giữ được những gì chúng ta có.

Bây giờ hơn bao giờ hết, trong thời đại đặc biệt này của những tham ái cực kì buông thả, chúng ta liên tục bị hành hạ ngày đêm bởi những lo lắng về vật chất và những tham dục, bởi những ái luyến và căm ghét. Bây giờ chúng ta cần nhận định được một điều quan trọng là sự tổn hại của các tham dục và các ái luyến đối với các sở hữu vật chất và những đam mê phiền não. Nếu chúng tahội thông hiểu tất cả các hiện tượng luân hồi sinh tử đều qua mau như những con sóng trên mặt nước, chỉ thuần là những hiện tướng hư huyễn, không có thực chất giống như các ảo giác hoặc các chiêm bao, chúng ta sẽ không bị gắn bó lưu luyến đối với chúng, và chúng ta có khả năng hài lòng chúng ta với những gì chúng ta có và vẫn tiếp tục hạnh phúc, tâm chúng ta mở rộng và an vui thanh thản.

Trong đường lối này, bằng vào sự thực hành Chính Pháp, chúng ta có khả năng tự do và cách tuyệt với luân hồi sinh tử một cách dứt khoát và vượt ngoài luân hồi sinh tử nhập vào đại lạc tối diệu của phật quả.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25653)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37869)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19588)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18670)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14258)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20099)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9503)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14371)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35566)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10654)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19703)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23200)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13361)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10746)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20218)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10602)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 9965)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14877)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17654)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17598)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13190)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31164)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25758)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 13980)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17506)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 10978)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12290)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10469)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12270)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11756)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9615)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12354)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9196)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8494)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 9959)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9758)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12032)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14417)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9900)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11206)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8295)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10968)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14083)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9907)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15205)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13036)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23076)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 23987)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12570)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15426)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17786)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15049)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16552)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16092)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17639)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11590)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11617)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17825)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10780)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10519)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11322)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12078)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11049)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36417)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8961)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9678)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34709)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17264)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10243)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10468)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12198)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13635)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14667)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9149)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24806)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11636)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10315)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15939)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15571)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14517)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13004)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12446)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14578)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18355)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9570)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18519)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18585)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19017)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18834)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11831)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13344)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 47988)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11065)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13549)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13037)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11061)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12553)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11051)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31772)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11669)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant