Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 2 – Thuật giả kim và Sự Đột biến

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 10098)
Đối thoại 2 – Thuật giả kim và Sự Đột biến

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 2

THUẬT GIẢ KIM VÀ SỰ ĐỘT BIẾN

New Delhi, ngày 14 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Tôi đang suy nghĩ liệu có quan trọng để bàn luận về thái độ của người Ấn độ cổ xưa đối với thuật giả kim và sự đột biến, và thấy liệu những khám phá của thuật giả kim có bất kỳ liên quan nào đến điều gì anh đang nói. Nó có nghĩa rằng Nagarjuna, một trong những người khai triển vĩ đại của tư tưởng Phật giáo, chính ông ấy là một Bậc thầy của thuật giả kim. Sự tìm kiếm của những người thuật giả kim ở Ấn độ không được hướng quá nhiều đến công việc biến những kim loại căn bản thành vàng, nhưng được hướng nhiều đến một thâm nhập vào những qui trình hóa học và tâm lý nào đó mà trong nó, thân thể và cái trí có thể được giải phóng khỏi những tàn phá của thời gian và những qui trình của sự thoái hóa nhờ vào sự đột biến. Lãnh vực của sự thâm nhập gồm có: làm chủ được hơi thở, uống một loại thuốc trường sinh được bào chế trong lò luyện đơn của phòng thí nghiệm, một chất thuốc mà trong nó thủy ngân có một vai trò quan trọng, và một châm ngòi của một vụ nổ trong ý thức. Hành động của ba việc này dẫn đến một đột biến của thân thể và cái trí. Biểu tượng được dùng bởi người thuật giả kim là tình dục; thủy ngân là hạt giống đực của thần Shiva, chất mica là hạt giống cái của nữ thần; sự hợp nhất của hai giống, không chỉ thuộc vật chất và trong những lò luyện đơn của phòng thí nghiệm nhưng còn trong chính ý thức, gây ra một đột biến; một tình trạng được tự do khỏi thời gian và những qui trình của tuổi tác, một tình trạng không liên quan đến hai yếu tố hợp thành đực và cái mà trong sự hợp nhất trọn vẹn của chúng đã châm ngòi cho sự đột biến. Việc này có liên quan đến bất kỳ điều gì anh đang nói?

Krishnamurti: Bạn đang hỏi về trạng thái của ý thức mà vượt khỏi thời gian.

P: Trong mọi cá thể người ta có thể thấy yếu tố đực và cái đang vận hành.

 Người thuật giả kim đã thấy được sự cần thiết của hợp nhất, của cân bằng. Liệu có bất kỳ giá trị nào trong điều này?

Krishnamurti: Tôi nghĩ người ta có thể quan sát điều này trong chính người ta. Tôi đã quan sát rằng trong mỗi người chúng ta đều có những nguyên tố đực và những nguyên tố cái. Hoặc chúng ở trong một trạng thái cân bằng hoàn hảo hoặc trong một trạng thái mất cân bằng. Khi có sự cân bằng hoàn hảo này giữa những nguyên tố đực và những nguyên tố cái, vậy thì các cơ quan thân thể thực sự không bao giờ bị bệnh tật; có thể có những bệnh tật hời hợt nhưng sâu thẳm phía bên trong không có bệnh tật mà phá hoại các cơ quan thân thể. Có lẽ đây chắc là điều gì những người cổ xưa đã tìm kiếmnhận dạng nó bằng chất thủy ngân và chất mica, nguyên tố đực và nguyên tố cái và qua thiền định, học hành, và có lẽ qua một dạng thuốc men nào đó đã cố gắng tạo ra sự hòa hợp hoàn hảo này. Trong chính người ta, người ta có thể thấy rất rõ ràng sự vận hành của những nguyên tố đực và những nguyên tố cái đang diễn ra. Khi một cái này hay cái kia quá nổi trội, sự mất cân bằng tạo ra bệnh tật; không chỉ những bệnh tật hời hợt nhưng còn cả những bệnh tật tại những chiều sâu. Tôi đã nhận thấy, theo cá nhân bên trong chính bản thân tôi, dưới những tình huống và khí hậu khác biệt, với những con người khác nhau mà hung hăng, bạo lực, những nguyên tố cái đảm đương và nổi trội nhiều hơn. Sự nổi trội này người khác sử dụng để khẳng định chính anh ấy. Nhưng khi có quá nhiều nguyên tố cái quanh người ta, những nguyên tố đực không trở nên hung hăng nhưng rút lui mà không có bất kỳ kháng cự nào.

S: Những nguyên tố đực và những nguyên tố cái là gì?

Krishnamurti: Thông thường nguyên tố đực là hung hăng, bạo lực, thống trịnguyên tố cái là yên lặng, mà dẫn đến sự phục tùng và sau đó bị trục lợi bởi con người. Nhưng sự phục tùng mà được coi là chất lượng của nguyên tố cái, thực sự là sự mềm mỏngdần dần chinh phục nguyên tố đực.

 Khi những nguyên tố cái và những nguyên tố đực hòa hợp hoàn hảo, chất lượng của cả hai nguyên tố đều thay đổi. Nó không còn là đực hay cái nữa. Nó là cái gì đó hoàn toàn khác hẳn, liên quan đến điều gì được nghĩ như đực và cái. Những nguyên tố đực và những nguyên tố cái như những tích cực và những tiêu cực bởi vì chính bản chất của chúng là phân hai, ngược lại sự cân bằng hoàn hảo, một hòa hợp của hai nguyên tố có một chất lượng khác hẳn. Tôi được phép nói điều gì chứ? Nó giống như chất lượng của quả đất mà mọi thứ đều sống trong nó nhưng không thuộc về nó. Tôi đã nhận thấy điều này vận hành rất thường xuyên. Khi toàn cái trí rút lui khỏi thân thể và môi trường, nó giống như thể nó ở rất xa; xa không phải trong không gianthời gian, nhưng một trạng thái mà không gì có thể tiếp xúc được. Trạng thái này không phải một trừu tượng và cũng không phải một rút lui nhưng một không-hiện diện tuyệt đối, phía bên trong. Khi sự hòa hợp hoàn hảo này xảy ra, bởi vì không có xung đột, nó có sức sống riêng của nó. Nó không hủy diệt cái còn lại. Vì vậy, xung đột không chỉ ở phía bên ngoài nhưng còn cả phía bên trong và khi xung đột này hoàn toàn kết thúc, có một đột biến mà không bị tiếp xúc bởi thời gian.

P: Người thuật giả kim đã gọi điều này là sự sinh ra của Kumara, của đứa trẻ kỳ diệu – cậu ấy mà không bao giờ già nua, cậu ấy mà hoàn toàn hồn nhiên.

Krishnamurti: Nó rất thú vị – nhưng thuật giả kim đã trở thành tương đồng quá nhiều với những ma thuật giả tạo.

P: Nhưng những người thuật giả kim, những vị thầy mà được biết đến như là rasa siddha – những người hiệp thông cùng bản thể – đã khẳng định rằng điều gì họ đã diễn tả, họ thấy bằng hai mắt riêng của họ, rằng điều gì họ ghi lại không phải từ nghe nói lại hay từ sự diễn giải của vị thầy. Có một yếu tố lý thú khác. Trong thuật giả kim cái dụng cụ, cái thùng chứa được chú ý nhiều. Khoa học luyện kim đã phát triển từ điều này – một trong những thùng chứa hay yantras được biết đến như là garbha yantra, cái thùng chứa tử cung. Nó là một từ ngữ chính trong thuật giả kim.

Krishnamurti: Liệu có một sự việc như chuẩn bị cái tử cung của cái trí, mà trong đó thời gian được bao hàm?

P: Những người thuật giả kim cũng hiểu rõ rằng tại điểm chuẩn của sự đột biến, của sự cố định của thủy ngân, của sự sinh ra của cái không-thời gian, thời gian không dính dáng.

Krishnamurti: Đừng sử dụng từ ngữ chuẩn bị. Chúng ta hãy trình bày nó theo cách này. Liệu có một trạng thái cần thiết, một nền tảng cần thiết, một thùng chứa cần thiết mà có thể chứa đựng cái này? Tôi muốn nói rằng không, bởi vì khi họ tìm được cậu bé Krishnamurti, những người mà được nghĩ là tiên tri trong thời gian đó, đã thấy rằng cậu ta không có chất lượng của ích kỷvì vậy cậu ta xứng đáng là cái thùng chứa, và tôi nghĩ rằng điều đó đã vẫn y nguyên như vậy từ lúc đó đến lúc này.

S: Đó có lẽ là như thế, nhưng còn những người bình thường giống như chúng tôi thì sao? Liệu đây là một đặc ân chỉ được trao tặng cho rất rất ít người, một người trong một ngàn năm hay nhiều hơn, hay liệu điều này xảy ra cho những người mà quan tâm đến tất cả điều này, mà cam kết đến tất cả điều này, mà thực sự nghiêm túc trong sự thâm nhập này?

Krishnamurti: Để trả lời câu hỏi này, những yếu tố thân thể và những trạng thái tâm lý nào đó là cần thiết. Thuộc thân thể phải có sự nhạy cảm. Sự nhạy cảm thuộc thân thể không thể xảy ra khi sử dụng thuốc men, nhậu nhẹt, ăn thịt. Sự nhạy cảm của thân thể phải được duy trì. Đó là điều cốt lõi. Thuộc truyền thống, thông thường một thân thể như thế vẫn còn phải ở trong một nơi được hỗ trợ bởi những người học trò, bởi gia đình. Thân thể không bị choáng váng hay bị phơi bày.

 Liệu một người rất nghiêm túc trong tất cả điều này, liệu anh ấy với một thân thể mà đã trải qua những ảnh hưởng khắc nghiệt thông thường, liệu anh ấy có thể làm cho thân thể đó nhạy cảm cao độ? Và cũng vậy cái tinh thần mà đã bị tổn thương qua sự trải nghiệm, liệu nó có thể xóa sạch tất cả những tổn thương và bầm dập và tự làm mới mẻ lại chính nó để cho có một trạng thái không-tổn thương? Đây là hai điều cốt lõinhạy cảm và cái tinh thần không-dấu vết. Tôi nghĩ điều này có thể được thành tựu bởi bất kỳ người nào thực sự nghiêm túc. Bạn thấy cái tử cung luôn luôn sẵn sàng để thụ thai. Nó tự làm mới mẻ lại chính nó.

P: Giống như quả đất, tử cung có chất lượng cố hữu của tự làm mới mẻ lại này.

Krishnamurti: Tôi nghĩ, chắc chắn cái trí cũng có cùng chất lượng.

P: Quả đất im lìm, tử cung yên lặng và trong cả hai đều có khả năng cố hữu để làm mới mẻ.

Krishnamurti: Quả đất, tử cung, cái trí đều có cùng chất lượng. Khi quả đất không bị canh tác và tử cung trống không và cái trí không có bất kỳ chuyển động nào, vậy thì mới mẻ lại xảy ra. Khi cái trí hoàn toàn trống không, nó giống như tử cung; nó là tinh khiết để mới mẻ lại, thâu nhận.

P: Vậy thì đây là cái thùng chứa, nơi chứa đựng.

Krishnamurti: Vâng, đây là thùng chứa, nhưng khi bạn sử dụng từ ngữ thùng chứa và nơi chứa đựng bạn phải cực kỳ cẩn thận.

 Chất lượng cố hữu của cái trí để tự làm mới mẻ lại chính nó này có thể được gọi là sức trẻ trung vĩnh cửu.

P: Nó được biết đến như là Kumara Vidya.

Krishnamurti: Vậy thì điều gì khiến cho cái trí già nua? Chắc chắn chuyển động của cái tôi khiến cho cái trí già nua.

P: Cái tôi làm cạn kiệt những tế bào?

Krishnamurti: Tử cung luôn luôn sẵn sàng thâu nhận. Nó luôn có một chất lượng của luôn luôn tự-làm tinh khiết chính nó, nhưng cái trí mà bị chất nặng bởi cái tôi – xung đột là cái tôi – không có không gian để tự làm mới mẻ lại. Khi cái tôi bị bận tâm với chính nó và những hoạt động của nó, cái trí không có không gian để tự làm mới mẻ lại. Vì vậy không giancần thiết, cả vật chất lẫn tinh thần. Làm thế nào điều này phù hợp với thuật giả kim?

P: Ngôn ngữ họ sử dụng là khác hẳn. Họ nói về sự đột biến qua hợp nhất.

Krishnamurti: Tất cả điều đó hàm ý nỗ lực, xung đột.

P: Làm thế nào người ta biết được?

Krishnamurti: Nếu nó hàm ý bất kỳ hình thức nào của qui trình, bất kỳ hình thức nào của thành tựu, nó hàm ý nỗ lực.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6193)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7264)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6780)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6202)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5689)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4955)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5371)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6678)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5978)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12037)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5760)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7063)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5515)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5908)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4927)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4472)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8256)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6554)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7428)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5841)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5501)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6438)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6772)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7574)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4901)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4654)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5282)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12685)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9748)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10502)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10372)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9951)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12046)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10187)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10826)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9945)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8837)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9538)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14580)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8819)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9138)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9375)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8836)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10572)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9252)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8401)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9459)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9033)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9621)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9036)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8408)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8989)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9029)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8789)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9412)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9080)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8822)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4110)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9080)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9928)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant