Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 6 – Năng lượng và Sự Đột biến

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9679)
Đối thoại 6 – Năng lượng và Sự Đột biến

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 6

NĂNG LƯỢNGĐỘT BIẾN

New Delhi, ngày 21 tháng 12 năm 1970

 

N

gười hỏi P: Cả khoa học và yoga đều khẳng định rằng khi một sinh vật đang sống được phơi bày đến năng lượng mãnh liệt có một đột biến. Điều này xảy ra khi có sự phơi bày quá mức đối với sự bức xạ – nó có lẽ dẫn đến một đột biến trong những gene. Theo yoga nó cũng xảy ra, khi suy nghĩ được đặt trong ý thức trước ngọn lửa của năng lượng. Anh nghĩ điều này có ý nghĩa dựa vào điều gì anh đang giảng thuyết?

B: Sự bức xạ mang lại sự biến dạng. Có thể có sự đột biến hủy diệt. Tia laser xuyên thủng sắt thép và da thịt. Nó có khả năng hủy diệt cũng như chữa trị.

Krishnamurti: Liệu điều gì bạn muốn nói đến là năng lượng con người? Năng lượng trong những con người là gì? Chúng ta hãy trình bày nó rất đơn giản.

P: Năng lượng là cái gì đó mà làm cho sự chuyển động có thể xảy ra được.

B: Năng lượng hiện diện tại những mức độ khác nhau. Có năng lượng tại mức độ vật lý. Tiếp theo chính bộ não là một nguồn của năng lượng; nó tạo ra những xung điện.

Krishnamurti: Tất cả chuyển động, sự bức xạ, bất kỳ chuyển động nào của suy nghĩ, bất kỳ hành động nào đều là năng lượng. Khi nào nó trở thành mãnh liệt? Khi nào nó có thể làm những việc phi thường nhất? Khi nào nó có thể được hướng dẫn để thực hiện những việc không thể tưởng tượng được?

P: Khi nó không bị hao tán. Khi nó được tập trung.

Krishnamurti: Khi nào điều đó xảy ra? Nó xảy ra trong tức giận, hận thù, bạo lực? Nó xảy ra khi có tham vọng, khi có ham muốn cực kỳ? Hay nó xảy ra khi một thi sĩ có sự thôi thúc, sinh lực, năng lượng để sáng tác?

P: Năng lượng như thế kết tinh và trở thành cố định?

Krishnamurti: Chúng ta biết dạng năng lượng này. Nhưng năng lượng chúng ta biết không tạo được một đột biến trong cái trí con người. Tại sao? Năng lượng này trở thành mãnh liệt khi có sự thành tựu trong hành động. Khi nào nó chuyển động đến một kích thước khác hẳn? Một họa sĩ hay một người khoa học, sử dụng tài năng của anh ấy, tăng cường năng lượng và cho sự diễn tả đến nó. Nhưng chất lượng của cái trí anh ấy, của thân tâm anh ấy, không được thay đổi bởi năng lượng này.

Pupul Jayakar: Chúng ta đang bỏ sót cái gì đó trong tất cả điều này.

Krishnamurti: Bạn đang hỏi liệu có một chất lượng của năng lượng mà thay đổi cái trí con người? Đó là câu hỏi của bạn. Lúc này, tại sao nó không xảy ra trong người họa sĩ, trong người nhạc sĩ, trong người viết văn?

P: Tôi nghĩ do bởi năng lượng của họ là thuộc một kích thước.

Krishnamurti: Người họa sĩ vẫn còn tham vọng, tham lam, một người trưởng giả.

S: Tại sao anh nói rằng sự tham lam sẽ hiện diện trong cách của năng lượng đang vận hành? Con người có lẽ có tham vọng nhưng anh ấy cũng tốt lành. Đây là những yếu tố tạo thành cái ngã của anh ấy.

Krishnamurti: Chúng ta đang hỏi tại sao, khi con ngườinăng lượng đó, năng lượng đó không tạo ra một thay đổi cơ bản?

P: Con ngườinăng lượng để vận hành trong môi trường sống của anh ấy. Nhưng có một lãnh vực rộng lớn của thân tâm anh ấy nơi không có chuyển động của năng lượng.

Krishnamurti: Con người sử dụng năng lượng, vận hành trọn vẹn trong một phương hướng, và trong những phương hướng còn lại anh ấy im lìm. Năng lượng im lìm trong một phần thuộc sự tồn tại của anh ấy, và trong phần khác nó lại năng động.

P: Thậm chí những dụng cụ giác quan của con người cũng được sử dụng từng phần.

Krishnamurti: Anh ấy là một con người phân chia. Tại sao sự phân chia này xảy ra? Một mảnh đang năng động cực kỳ, mảnh kia không vận hành gì cả. Một mảnh thì tầm thường, trưởng giả, nhỏ nhen. Khi nào hai mảnh này kết hợp để trở thành năng lượng hòa hợp? Một năng lượng không-phân chia? Một năng lượng không vận hành trọn vẹn tại một mức độ trong khi tại mức độ khác điện áp lại yếu?

P: Khi những dụng cụ giác quan vận hành trọn vẹn.

Krishnamurti: Khi nào điều này xảy ra? Chúng vận hành trọn vẹn khi có một khủng hoảng nghiêm trọng?

P: Không luôn luôn, thưa anh. Hành động của khủng hoảng cũng có thể là từng phần; anh có thể nhảy tránh khi thấy một con rắn nhưng anh có thể nhảy vào một bụi gai.

Krishnamurti: Khi nào mảnh không còn là một mảnh. Chúng ta không đang suy nghĩ dựa vào chuyển động, dựa vào hành động, dựa vào thay đổi, hay sao? Chúng ta đã chấp nhận chuyển động để tồn tại, chuyển động của trở thành. Chúng ta đã chấp nhận sự phân chia. Chuyển động của trở thành luôn luôn là một chuyển động trong những mảnh. Liệu có một chuyển động mà không phụ thuộc vào những bảng phân loại này? Hãy thấy điều gì xảy ra nếu không có chuyển động gì cả.

P: Tôi đã luôn luôn thấy rằng hiểu rõ những câu hỏi này của anh là điều rất khó khăn. Bản chất của chính câu hỏi gợi ý một điều khác, điều đối nghịch.

S: Người ta thực sự không biết chuyển động im lìm.

Krishnamurti: Thoạt đầu chúng ta đã nói có sự phân chia. Một mảnh rất sinh động và mảnh còn lại không sinh động.

B: Năng lượng của người họa sĩ, toàn thân tâm của anh ấy, vận hành theo một kích thước. Không có sự nhận biết.

Krishnamurti: Tôi không chắc lắm. Một mảnh là sinh động. Bạn đang nói mảnh còn lại không nhận biết được chính nó.

P: Người họa sĩ vẽ, anh ấy cũng có một tình yêu với một người phụ nữ. Anh ấy không thấy những hành động này như những mảnh.

Krishnamurti: Chúng ta đã vượt quá điều đó. Chúng ta thấy anh ấy bị phân chia. Anh ấy vận hành trong những mảnh – một mảnh thì sinh động và mảnh kia lại im lìm. Trong sự im lìm đó có hành động đang xảy ra. Một mảnh thì rất năng động và mảnh kia trong một âm điệu thấp. Chúng ta thấy điều này. Lúc này câu hỏi là, liệu năng lượng này có thể tăng thêm để tạo ra một thay đổi trong những tế bào não?

P: Liệu nó có thể đem theo cái mảnh lờ đờ và thay đổi chính cấu trúc của nó để cho có một thay đổi trong cả hai.

Krishnamurti: Tôi có lẽ là một người điêu khắc vĩ đại. Một mảnh của tôi lại im lìm. Bạn hỏi, liệu có thể có một thay đổi không những trong cái mảnh im lìm nhưng còn cả trong năng lượng đó mà đi vào sự sáng tác của người điêu khắc.

 Câu hỏi là, liệu tôi có sẵn lòng chấp nhận rằng tôi có lẽ không còn là một người điêu khắc? Bởi vì điều đó có lẽ xảy ra. Khi tôi thâm nhập vấn đề của một thay đổi này trong chính những tế bào não, nó có thể xảy ra rằng tôi có lẽ không bao giờ là một người điêu khắc. Nhưng là một người điêu khắc lại rất quan trọng đối với tôi. Tôi không muốn buông bỏ việc nó.

P: Chúng ta hãy bỏ qua người điêu khắc. Ở đây chúng tôi đang ở trước mặt anh và anh nói, hãy nhìn, thay đổi này trong cấu trúc của những tế bào não có lẽ là sự kết thúc của tất cả tài năng, của tất cả hành động quan trọng. Chúng tôi chấp nhận điều gì anh nói.

Krishnamurti: Điều đó đúng. Nếu bạn sẵn sàng buông bỏ, vậy thì điều gì xảy ra? Mà có nghĩa mất đi khả năng, sự thành tựu, sự tiếp tục của ‘cái tôi’. Lúc này, khi nào qua năng lượng sự đột biến này trong những tế bào não xảy ra?

 Bạn thấy nơi nào năng lượng đang bị hao tán qua tài năng và qua những khe rãnh, năng lượng không được tập hợp hoàn toàn. Khi năng lượng này không chuyển động gì cả, vậy thì tôi nghĩ cái gì đó xảy ra, vậy thì nó phải nổ tung.

 Tôi nghĩ, lúc đó chất lượng của chính tế bào não thay đổi. Đó là lý do tại sao tôi đã hỏi, tại sao chúng ta luôn luôn đang suy nghĩ dựa vào sự chuyển động?

 Khi không có chuyển động phía bên trong hay phía bên ngoài, khi không có nhu cầu trải nghiệm, không thức dậy, không tìm kiếm, không chuyển động thuộc bất kỳ loại nào, lúc đó năng lượng ở tại mức độ tột đỉnh của nó. Mà có nghĩa, người ta phải phủ nhận tất cả chuyển động. Khi điều đó xảy ra, năng lượng hoàn toàn bất động, mà là yên lặng.

 Như chúng ta đã nói ngày hôm trước, khi có yên lặng, vậy là cái trí đang tự thay đổi chính nó. Vậy là nó hoàn toàn im lìm, khi không ai đang canh tác nó, vậy thì nó yên lặng giống như cái tử cung.

 Cái trí mà là thùng chứa của chuyển động, khi chuyển động đó không có hình dáng, không ‘cái tôi’, không tầm nhìn, không hình ảnh, nó hoàn toàn yên lặng.

 Trong nó không có ký ức. Vậy thì những tế bào não trải qua một thay đổi.

 Những tế bào não quen thuộc với chuyển động trong thời gian. Chúng là cặn bã của thời gianthời gian là chuyển động; một chuyển động bên trong không gian mà nó tạo ra khi nó chuyển động. Khi cái trí thấy được điều này, khi nó thấy sự vô lý của tất cả chuyển động trong ý nghĩa của thời gian, vậy thì tất cả chuyển động đều kết thúc.

 Vì vậy, khi cái trí phủ nhận hoàn toàn tất cả chuyển động, thế là tất cả thời gian, tất cả suy nghĩ, tất cả ký ức, có sự yên lặng tuyệt đối, không phải sự yên lặng tương đối.

 Vì vậy, vấn đề là không phải làm thế nào tạo ra sự thay đổi, nhưng thâm nhập vào cấu trúc của những tế bào não. Sự nhận ra rằng bất kỳ chuyển động nào từ những tế bào não đều cho sự tiếp tục đến chính thời gian, kết thúc tất cả những chuyển động. Chuyển động luôn luôn ở trong quá khứ hay trong tương lai – chuyển động từ quá khứ sang hiện tại đến tương lai. Đó là tất cả mà chúng ta biết và chúng ta muốn sự thay đổi trong chuyển động này. Chúng ta muốn chuyển động, và tuy nhiên chúng ta muốn sự thay đổi trong chuyển động này, và thế là những tế bào não tiếp tục. (Ngừng)

 Đơn giản lạ thường. Tôi không biết liệu bạn thấy điều này. Tất cả chúng ta đều muốn làm phức tạp nó. Bất kỳ nỗ lực nào để chặn đứng sự chuyển động đều là sự mâu thuẫnvì vậy, thời gian, và thế là không thay đổi gì cả. Tất cả những người tìm kiếm đều đã nói về một chuyển động cao hơn, chuyển động thuộc thứ bậc. Câu hỏi là, liệu chính cái trí có thể tự-phủ nhận tất cả chuyển động?

 Bạn thấy, khi bạn nhìn ngắm bộ não của bạn, có trung tâm hoàn toàn yên lặng và tuy nhiên đang lắng nghe mọi thứ đang xảy ra – chiếc xe buýt, những con chim. Chúng ta muốn chặn đứng sự ồn ào phía bên ngoài nhưng lại muốn tiếp tục sự huyên thuyên phía bên trong. Chúng ta muốn chặn đứng chuyển động phía bên ngoài nhưng tiếp tục với chuyển động phía bên trong.

 Khi không có chuyển động, có sự tập trung lạ thường của năng lượng.

 Vì vậy, đột biến là sự hiểu rõ về chuyển động và kết thúc chuyển động trong chính những tế bào não.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6193)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7264)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6780)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6204)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5690)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4955)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5371)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6680)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5978)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12038)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5760)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7063)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5515)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5908)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4927)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4472)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8256)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6554)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7428)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5841)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5501)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6438)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6772)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7574)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4901)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4654)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5282)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12687)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9751)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10502)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10372)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9952)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12046)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10188)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10828)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9949)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8837)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9538)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14580)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8820)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9138)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9375)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8838)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10573)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9253)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8401)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9459)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9033)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9621)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9037)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8409)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8989)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9030)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8790)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9413)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9080)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8823)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4110)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9080)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9930)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant