Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 14 – Xung độtÝ thức

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9512)
Đối thoại 14 – Xung đột và Ý thức

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

Madras, 1971

Đối thoại 14

XUNG ĐỘTÝ THỨC

Madras, ngày 5 tháng 1 năm 1971

 

N

gười hỏi A: Khi anh nói rằng ký ức là chức năng của những tế bào não, liệu những tế bào não như một nguồn của trí năng có bất kỳ vai trò giá trị nào để góp phần trong sự yên lặng riêng của nó?

Krishnamurti: Ngày hôm qua chúng ta đã nói về lý do tại sao hiểu biết đã được biến thành quan trọng như một phương cách của sự khai sáng. Rõ ràng, mỗi vị thầy tôn giáo đã khẳng định vào hiểu biết, không chỉ ở phương Đông nhưng còn cả ở phương Tây. Và bởi vì truyền thống quá cắm rễ trong quốc gia này, tìm ra toàn sự suy nghĩhệ thống này đảm đương vị trí gì trong việc đạt được sự khai sáng là điều thực sự cần thiết? Tình trạng bị quy định thuộc môi trường sống này có vai trò nào trong sự khai sáng? Làm thế nào văn hóa, tình trạng bị quy định bởi văn hóa hiện diện? Bạn phải thâm nhập toàn lãnh vực? Ví dụ như một tầm nhìn thuộc truyền thống giống như tầm nhìn của Nagajuna hay Sankara. Hãy tiếp cận nó từ đó.

A: Những người truyền thống nói, tất cả hành động, hoạt động, phát sinh từ những nguyên nhân, và những nguyên nhân này là cái đã được biết.

Krishnamurti: Bạn đang đưa ra một câu nói không chính xác. Bạn đang nói rằng từ nguyên nhân đến hậu quả. Không có sự việc như thế.

A: Nó bắt đầu bằng câu sutra này: ‘Tất cả những thể hiện này của hành vi, chính Phật đã giải thích cho bạn cái nguồn của tất cả những thể hiện này. Nếu bạn biết nguyên nhân, bạn có thể loại bỏ nguyên nhân.’ Đây là khẳng định của Phật. Bằng cách hiểu rõ nguyên nhân bạn loại bỏ được nó, và ngài đã chỉ cho bạn nguyên nhân. Tất cả suy nghĩ, hành vi được thể hiện, đều trong lãnh vực của nguyên nhân-hậu quả.

Krishnamurti: Tôi nghi ngờ điều này. Tất cả chúng ta cũng thấy rằng cái gì đã là nguyên nhân đều trở thành hậu quảhậu quả trở thành nguyên nhân. Không có nguyên nhân cố định, không có hậu quả cố định. Nếu có một nguyên nhân cố định, mọi thứ đều bị cố định. Vậy thì, không có giải thích, thâm nhập, chuyển động nào có thể xảy ra được. Hạt sồi sẽ sinh ra một cây sồi. Trên nguyên tắc này chúng ta nghĩ nghiệp lực vận hành. Lúc này, liệu có một điểm cố định hay liệu có một chuyển động liên tục mà cái trí và bộ não không thể đang theo sau, đang sống? Và vì vậy cái trí nói có nguyên nhânhậu quả và nó bị trói buộc trong khuôn mẫu đó.

 

A: Liệu có một sự việc như là nguyên nhân và hậu quả? Nếu có một chuỗi của nguyên nhân-hậu quả, anh có thể giữ nó tại bất kỳ điểm nào. Tại điểm nguyên nhân nơi hậu quả trở thành nguyên nhân, đó là chìa khoá cho điều này.

Krishnamurti: Ai sẽ giữ nó?

A: Nơi nào hậu quả trở thành nguyên nhân, đó là mấu chốt.

Krishnamurti: Bạn sỉ nhục tôi ngày hôm qua, đó là nguyên nhân. Sỉ nhục có lẽ đã là hậu quả của sỉ nhục trước của tôi đối với bạn, và trong phản ứng lại có một chuỗi của những hành động, những bổ sung đang liên tục xảy ra?

 Bạn sỉ nhục tôi; tại khoảnh khắc đó, nếu tôi nhận biết trọn vẹn, nếu cái trí nhận biết trọn vẹn, không có nguyên nhân-hậu quả gì cả. Bạn sỉ nhục tôi. Phản ứng đến sỉ nhục đó là từ bộ não cũ kỹ mà đã tự-phân chia chính nó, phản ứng đó đang vận hành trong một khuôn mẫu. Tại khoảnh khắc của sỉ nhục, bộ não cũ kỹ không phản ứng chỉ có thể xảy ra khi có sự chú ý trọn vẹn. Trong khoảnh khắc của sự chú ý đó không có nguyên nhân-hậu quả.

A: Nếu không có sự chú ý, nó trở thành nguyên nhân của một chuỗi khác. Vậy là, nơi nào một hậu quả tự nẩy mầm thành một nguyên nhân mới, chính nơi đó hành động xảy ra mà gây khác biệt.

Krishnamurti: Tôi không nghĩ như thế. Tôi sỉ nhục bạn. Điều đó có lẽ là kết quả của sự vô tình của tôi đối với bạn. Nó đã gây tổn thương bạn và bạn muốn gây tổn thương tôi. Nguyên nhân là việc không đón chào bạn của tôi, và nguyên nhân là tôi quan tâm đến chim chóc, đến chuyển động đôi cánh của chúng. Tôi là một nghệ sĩ. Tôi muốn nhìn ngắm một con chim trong tất cả những chuyển động của nó. Nguyên nhân ở đâu và hậu quả ở đâu? Tôi thấy một chuyển động của những chiếc lá trong cơn gió nhẹ, và tôi không chào hỏi bạn. Bạn là một người bạn thân và bạn bị sỉ nhục.

J: Nguyên nhân ở trong chính người ta.

Krishnamurti: Sự quan sát của chuyển động không ở trong chính người ta.

J: Sự sỉ nhục nảy ra trong tôi không phải trong anh.

Krishnamurti: Không cố ý, tôi đã tạo ra một nguyên nhân để gây sỉ nhục bạn.

J: Điều gì khiến tôi cảm thấy bị sỉ nhục là ở bên trong tôi. Nguyên nhânhậu quả ở bên trong tôi.

Krishnamurti: Bạn đang nói, mặc dù tôi không chào hỏi bạn, chính sự kiện của sỉ nhục đó được sinh ra trong bạn, không phải được trao đến bạn. Tôi hoàn toàn không chắc lắm.

A: Tôi có tình cảm với anh và tôi thấy anh đang nhìn ngắm con chim, tôi sẽ hiểu rõ, nhưng nếu tôi không có tình cảm, vậy thì tôi sẽ chê trách anh. Vì vậy, nhân duyên luôn luôn ở bên trong.

Krishnamurti: Tôi hiểu rất rõ ràng điều gì bạn nói.

A: Nó không luôn luôn là một người nào đó đối với một liên hệ. Thay vì nói nguyên nhân này nảy sinh cùng người này, theo qui luật thông thường là như thế này: “Vẫn vậy toàn sự việc nảy sinh bằng một hỗn mang của không-biết – avidya. Anh đến trạng thái tập trung của ‘cái tôi’. Trong avidya là samskara, tất cả mọi dấu vết được lưu lại mà con người đã làm. Từ đó là ý thức, từ ý thức dẫn đến đặt tên. Những việc này dẫn đến thân thểsáu giác quan: sau đó anh thấy.”

 Nguyên nhân được sử dụng trong một ý thức vũ trụ rộng lớn. Nhưng anh bắt đầu từ vị trí của ‘Tôi thấy’ và chỉ bắt đầu từ đó.

J: Sankara nói anh không thể giải thích làm thế nào sự dốt nát bắt đầu và ngài phủ nhận nhân duyên. Nguyên nhân-hậu quả có thể được kết thúc. Trước khi anh thâm nhập sâu thêm nữa anh phải làm trống không mảnh trí năng.

Krishnamurti: Đây là một phần của Zen?

A: Không, thưa anh, không phải. Sự thức dậy của thông minh không là chất lượng riêng.

J: Anh không thể tránh né mảnh trí năng. Chúng ta không biết làm thế nào qui trình này bắt đầu, nhưng chúng ta có thể kết thúc nó.

Krishnamurti: Từ hạt giống, vô số tế bào, cho đến khi con người đã xuất hiện. Từ tế bào đơn nhất nó chuyển động tiếp tục.

A: Người sinh học không rời khỏi sự thể hiện. Để giả thiết nó là một sự việc sai lầm.

Krishnamurti: Có sự dốt nát và luôn luôn có sự nhận biết, sự cảm xúc.

A: Samskara là tất cả những dấu vết được lưu lại mà được sắp xếp vào chung.

Krishnamurti: Sắp xếp vào chung trong thời gian mà có nghĩa sự tiến hóa.

A: Sau đó anh đến mấu chốt kế tiếp, vijnana, mà là ý thức.

Krishnamurti: Liệu ý thức có khác biệt samskara? Cái mà đã được sắp xếp vào chung là ý thức.

A: Không, thưa anh, nó là cái hỗn mang. Bên trong đó hiện diện ý thức của anh, ý thức của tôi.

Krishnamurti: Chúng ta hãy tìm ra.

A: Cái hỗn mang là chung cho tất cả chúng ta.

Krishnamurti: Bạn nói, samskara có nghĩa sắp xếp vào chung.

A: Một cách chính xác nó có nghĩa là những khuynh hướng.

Krishnamurti: Tôi đang hỏi ý thức là gì? Ý thức được tạo thành từ nội dung. Nếu không có nội dung, liệu có ý thức hay không? Nội dung của ý thứcý thức. Nội dung đã và đang trải qua hàng thế kỷ.

A: Liệu nội dung là tất cả hay nó là một mảnh?

Krishnamurti: Tôi thấy tất cả tình trạng bị quy định của tôi tạo ra ý thức.

A: Con người đã tồn tại được nhiều, nhiều năm. Trước khi ý thức của anh ấy hiện diện, cái nền hỗn mang đã ở đó rồi.

Krishnamurti: Sự suy nghĩ bắt đầu bằng tế bào đơn nhất. Con người đã sống được hơn ba mươi lăm ngàn năm; trong thời gian đó anh ấy đã thâu lượm tất cả mọi loại trải nghiệm. Tất cả điều đó là ý thức.

A: Từ điều này đã hiện diện ý thức.

Krishnamurti: Tôi không tách rời hai cái. Không có sự tách rời của hai cái. Nếu không có nội dung, không có ý thức. Trong ý thức có nhiều mảnh, và nó không là nội dung cố định. Có những mức độ, những hoạt động, những thái độ, những đặc điểm khác nhau; tất cả điều đó là toàn ý thức. Một phần của toàn ý thức đó, một mảnh của toàn ý thức đó đảm trách sự quan trọng. Sau đó nó nói ‘Tôi là ý thức’ hay ‘Tôi không là ý thức’, ‘Tôi là điều này’, ‘Tôi không là điều này’.

A: Anh đã thực hiện một phân biệt rõ ràng giữa ý thức mà có những mức độ khác nhau và tại mấu chốt đó mà nó nói ‘Tôi khác biệt’. Tại mấu chốt đó nó trở thành khác biệt.

R: ‘Cái tôi’ và ‘cái không tôi’, sự phân chia hiện diện ở đó.

A: Vậy thì có một khác biệt giữa cái hỗn mang và cái tôi.

Krishnamurti: Hãy quan sát, nội dung của ý thứcý thức. Nếu không có nội dung không có ý thức. Nội dung được tạo thành từ những phân chia khác nhau – gia đình tôi, gia đình bạn, tất cả điều đó; nó được tạo thành từ sự phân chia. Một trong những mảnh đảm trách sự quan trọng đối với tất cả những mảnh còn lại.

R: Cách cổ điển khi nói điều này là, sự phản ảnh tưởng tượng nó là vật nguyên thể đầu tiên.

A: Khoảnh khắc có sự tập trung, sự hình thành cá thể bắt đầu.

Krishnamurti: Hãy cẩn thận. Điều này rất quan trọng. Khi bạn sử dụng từ ngữ ‘cá thể’ nó có nghĩa không thể phân chia, trong chính anh ấy, không mảnh vỡ. Vì vậy một mảnh đảm trách uy quyền, quyền hành để chỉ trích, mảnh kiểm duyệt – tất cả đều ở trong khu vực mà chúng ta gọi là ý thức.

A: Trong trường hợp của ý thức như không-đồng hóa, điều gì xảy ra?

Krishnamurti: Tôi không biết một việc nào về sự đồng hóa.

A: Khoảnh khắc sự đồng hóa bắt đầu, sự quan trọng là rằng tôi đồng hóa chính tôi cùng một mảnh. Đó là mấu chốt của sự tách rời.

Krishnamurti: Đừng khẳng định bất kỳ điều gì. Nội dung của ý thứcý thức. Khi không có nội dung, không có ý thức. Trong nội dung đó là những nhân tố phá hoại của xung đột, của phân chia. Một mảnh đảm trách uy quyền, một mảnh không đồng hóa cùng những mảnh còn lại. Nó cảm thấy không an toàn – có những xung đột to tát như thế ở đó. Nó không đồng hoá cùng bất kỳ mảnh nào, nó thực hiện việc đó chỉ khi nào nó nói ‘Tôi thích điều này, tôi không thích điều này’.

R: ‘Cái tôi’ đó là gì?

A: Nó là quá khứ riêng của tôi.

J: ‘Cái tôi’ là mảnh.

A: Phật đã nói nó là tổng thể của tất cả những ấn tượng, sự phức tạp của những ấn tượng, mà đã tạo tác một nhận dạng cho chính nó nhưng không có sự nhận dạng trung thực.

R:ý thức và nó có tánh đa dạng vô hạn.

Krishnamurti: Có nhiều mảnh. Làm thế nào một mảnh trở thành quan trọng, và sau đó sự quan trọng cứ tiếp tục? (Ngừng)

 Tôi thấy cái gì đó. Có toàn cánh đồng của sự phân chia mà là ý thức. ‘Cái tôi’ hiện diện khi nào?

A: Liệu nó không được hàm ý trong cánh đồng của chính ý thức hay sao? ‘Cái tôi’ mà xuất phát từ nó tiềm tàng trong nó.

Krishnamurti: Có tất cả những mảnh này. Tại sao cái trí không thả nó lại một mình? Tôi thấy ý thức của tôi được tạo thành từ những mảnh khác nhau. Tại sao không thả nó lại một mình? Điều gì xảy ra?

A: Sự đồng hoá.

Krishnamurti: Có phân chia, mâu thuẫn, có xung đột. Đó là tất cả mọi việc xảy ra. Xung đột xảy ra. Bên trong xung đột đó có sự ham muốn để kết thúc xung đột.

A: Nơi nào có xung đột, nếu tôi không bị đồng hóa, nó không ảnh hưởng đến tôi. Tại mấu chốt đó nó không trở thành xung đột.

Krishnamurti: Chỉ có xung đột, đối kháng, mâu thuẫn trong ý thức. Có cánh đồng của ý thức này mà chúng ta đã diễn tả. Nơi nào có đối kháng, mâu thuẫn, đó là khu vực của xung đột. Có lẽ có những mảnh. Mỗi mảnh đang tách rời sẽ sản sinh xung đột, đau khổ, vui thú, phiền muộn, buồn bã, thất vọng.

 Đó là cánh đồng. Sau đó điều gì xảy ra?

A: Tôi muốn kết thúc nó.

Krishnamurti: Ở đây, toàn cấu trúc của ý thức này là một trận chiến.

A: Tại sao anh nói như thế? Ý thức ngập tràn những yếu tố không thể hòa hợp được. Khoảnh khắc tôi sử dụng từ ngữ ‘xung đột’ tôi đã tự đồng hoá.

Krishnamurti: Cánh đồng này của ý thức đang bị phân chia là cái nguồn của xung độtẤn độ và Pakistan. Tôi là một người Ấn giáo và bạn là một người Hồi giáo. Sự kiện là, chắc chắn sự phân chia tạo ra sự xung đột.

A: Đó là như thế, cho đến khi anh đến mấu chốt của việc đặt tên, đặt tên thay đổi chất lượng.

Krishnamurti: Hãy quan sát khu vực của xung đột. Có phân chia. Nơi nào có phân chia chắc chắn phải có xung độtgia đình của tôi, gia đình của bạn, Thượng đế của tôi, Thượng đế của bạn.

A: Liệu mỗi mảnh bị phân chia trở nên nhận biết được?

Krishnamurti: Tôi thấy sự kiện rằng nơi nào có phân chia, phải có xung đột. Trong ý thức này nơi nào có quá nhiều mảnh, phải có xung đột. Trong thế giới thuộc hiện tượng, anh ấy là một người Ấn giáo và tôi là một người Hồi giáo, và việc đó đang nuôi dưỡng chiến tranh và hận thù. Đây là một hiện tượng đơn giản và đúng thực. Tất cả chúng ta đều nói về sự hợp nhất và tiếp tục những phân chia của chúng ta.

 Hãy thấy, thưa bạn, điều gì xảy ra? Trong cánh đồng này có xung đột, mâu thuẫn, phân chia, tách rời; khi xung đột trở nên kịch liệt, lúc đó ‘cái tôi’ và ‘cái bạn’ hiện diện. Ngược lại, tôi thả nó lại một mình. Tôi bềnh bồng theo xung đột này, nhưng khoảnh khắc xung đột trở thành kịch liệt – có chiến tranh, chiến tranh Ấn giáo-Hồi giáo, lúc đó tôi là một người Ấn giáo và bạn là một người Hồi giáo; sự đồng hoá xảy ra cùng cái gì đó mà tôi nghĩ là vĩ đại hơn – cùng Thượng đế, quốc gia, ý tưởng.

 Chừng nào xung đột còn nhẹ nhàng, tôi thả nó lại một mình. Mấu chốt của tôi là, chừng nào không còn xung đột, không có ‘cái tôi’.

 Không có ‘cái tôi’ nếu khôngxung đột. Vì vậy chúng ta đang nói xung đột là sự đo lường ‘cái tôi’. Không có xung đột ngày hôm qua, có xung đột ngày hôm nay, và tôi hy vọng sẽ không có xung đột vào ngày mai. Chuyển động này là ‘cái tôi’. Đây là bản thể của ‘cái tôi’.

A: Có nhiều khía cạnh khác.

Krishnamurti: Cái cây có khác biệt những cành cây? Nó có lẽ có một ngàn cành cây. Cấu trúc của ý thức được đặt nền tảng trên xung đột này. Chúng ta không đang bàn luận làm thế nào để kết thúc xung đột.

R: Quan điểm thuộc truyền thống là, sự phân chia là ‘cái tôi’ và sự tách khỏi xung đột cũng là ‘cái tôi’.

A: Nếu xung đột còn bị che giấu, không được quan sát, ‘cái tôi’ còn hiện diện.

R: Liệu tất cả điều này đều bắt đầu ở đây hay sự nảy sinh của ‘cái tôi’ còn sâu thẳm hơn?

Krishnamurti: Liệu có một cái ngã, ‘cái tôi’ mà phải được học hành, hay ‘cái tôi’ là một chuyển động?

A: Anh nói ‘cái tôi’ bắt đầu như một chuyển động trong ý thức.

Krishnamurti: Không. Có một giả thuyết rằng ‘cái tôi’ đứng yên. Nó là như thế hay sao? ‘Cái tôi’ là cái gì đó phải được học hành? Hay ‘cái tôi’ là một chuyển động? Tôi học hành về cái gì đó hay tôi học hành trong chuyển động? Cái trước là không-tồn tại. Nó là sai lầm, nó là một sáng chế.

 Vì vậy sự kiện cơ bản là sự phân chia. Nó là cái nguồn của tất cả xung đột. Xung đột đó có lẽ mang những hình dạng, những mức độ khác nhau, nhưng nó đều giống hệt. Xung đột có lẽ là vui thú, tôi có lẽ thích được dọa nạt, hành hạ bởi người vợ của tôi, nhưng nó là một phần thuộc cấu trúc của xung đột.

R: Bản chất của ý thứcxung đột.

Krishnamurti: Xung đột không là bản chất của ý thức. Ý thứcxung đột. Nếu tôi không có xung đột, điều gì xảy ra cho tôi?

A: Anh nói không có ‘cái tôi’ nếu khôngxung đột. Điều đó có nghĩa trạng thái của không-xung đột là không-ý thức?

R: Trạng thái của không-xung đột vượt khỏi xung đột. Kích thước mà trong đó chúng ta sống là xung đột.

A: Thưa anh, tôi đã nói sự củng cố của xung đột bao gồm cả đặt tên.

Krishnamurti: Đặt tên, tất cả đều được bao hàm trong điều này. Con người bình thường bềnh bồng cho đến khi xung đột trở nên kịch liệt.

A: Khi xung đột trở nên kịch liệt, lúc đó việc đặt tên bắt đầu.

Krishnamurti: Đặt tên là gì? Tại sao chúng ta cần đặt tên? Tại sao tôi nói ‘người vợ của tôi’, tại sao? Hãy thâm nhập nó.

A: Tại một mức độ nó dành cho sự giao tiếp, tại một mức độ khác nó rất tinh tế.

Krishnamurti: Tại sao tôi nói ‘cô ấy là người vợ của tôi?’

R: Chúng ta muốn kéo dài ‘cái là’.

A: Bởi vì tôi muốn một tiếp tục trong đó.

Krishnamurti: Thưa bạn, tôi nói ‘người vợ của tôi’; tại sao?

A: Sự an toàn, tôi muốn bám chặt cô ấy.

Krishnamurti: Hãy quan sát, tôi nói từ ngữ không là sự kiện. Nó không bao giờ ‘là’. Từ ngữ chỉ là một phương tiện của sự hiệp thông. Sự kiện không là từ ngữ. Sự kiện rằng cô ấy là ‘người vợ của tôi’ là đúng thực theo luật pháp, nhưng điều gì tôi đã làm khi tôi nói nó? Tại sao tôi đã đặt tên nó? Để cho sự tiếp tục, để củng cố cái hình ảnh tôi đã dựng lên? Tôi sở hữu cô ấy hay cô ấy sở hữu tôi, vì tình dục, vì thỏa mãn, và vân vân. Tất cả điều này củng cố hình ảnh về cô ấy. Cái hình ảnh hiện diện ở đó để thiết lập cô ấy như người của tôi. Trong khi đó, cô ấy đang thay đổi; đang nhìn ngắm một người đàn ông khác. Tôi không công nhận sự tự do của cô ấy, và tôi không công nhận sự tự do gì cả, cho chính tôi. Vì vậy tôi đã làm gì khi tôi nói cô ấy là người vợ của tôi?

A: Anh đang nói chúng tôi không thích sự chuyển động, chúng tôi thích mọi thứ cố định.

Krishnamurti: Tôi muốn sở hữu cô ấy, và đó là lý do tại sao tôi cần cô ấy. Những tế bào não thiết lập một khuôn mẫu của thói quen và từ chối buông bỏ thói quen.

A: Toàn ý thức là những từ ngữ, hiểu biết. Tôi muốn hiểu rõ điều này, điều gì anh đang nói.

Krishnamurti: Hiểu biết được sắp xếp vào chung. Hiểu biết được sắp xếp vào chung, ngang hay dọc. Hiểu biết là một qui trình. Qui trình hàm ý thời gian. Thời gian hàm ý sự suy nghĩ. Thế là qua sự suy nghĩ, qua hiểu biết, qua thời gian, bạn đang cố gắng tìm ra cái gì đó mà vượt khỏi thời gian, mà không là hiểu biết, mà không là sự suy nghĩ. Bạn không thể.

A: Toàn qui trình mà chúng ta đã diễn tả cũng phải là không-từ ngữ.

Krishnamurti: Việc sử dụng những từ ngữ là để hiệp thông, cùng nhau chia sẻ cái gì đó chung giữa hai con người. Nhân tố chung giữa những con ngườituyệt vọng, phiền muộn, đau khổ. Liệu điều này có thể được xóa sạch qua thời gian hay liệu chúng có thể được xóa sạch ngay tức khắc? Qui trình này sẽ được kết thúc bằng những từ ngữ hay bằng không những từ ngữ? Từ ngữ không là sự việc. Bạn có lẽ diễn tả thức ăn ngon nhất, nhưng sự diễn tả không là thức ăn.

A: Sử dụng những từ ngữ cần đến một hiểu rõ hoàn toàn về lãnh vực của hiểu biết.

Krishnamurti: Những từ ngữ cần thiết để hiệp thông. Sự hiệp thông hàm ý cùng nhau chia sẻ những vấn đề chung.

 Từ ngữ không là sự việc, nhưng chúng ta phải sử dụng từ ngữ để hiểu rõ sự việc.

 Tại sao chúng ta khiến cho từ ngữ thành quan trọng như thế? Những từ ngữ được sử dụng để hiệp thông. Chúng ta phải rõ ràng.

A: Với mục đích để sự hiệp thông xảy ra phải có những từ ngữ.

Krishnamurti: Khi nào sự hiệp thông xảy ra – sự chia sẻ cùng nhau về một vấn đề chung?

A: Nó có thể xảy ra bằng không-từ ngữ.

Krishnamurti: Đối với tôi sự hiệp thông có nghĩa đang cùng nhau chia sẻ, đang cùng nhau suy nghĩ, đang cùng nhau sáng tạo, đang hiểu rõ. Khi nào chúng ta cùng nhau? Chắc chắn, không phải chỉ trên mức độ từ ngữ mà thôi. Chúng ta cùng nhau chia sẻ vấn đề, khi chúng ta sinh động, đam mê lạ thường, tại cùng mức độ bằng cùng mãnh liệt. Khi nào việc này xảy ra? Nó xảy ra khi bạn thương yêu cái gì đó. Khi bạn thương yêu, nó liền chấm dứt. Tôi hôn bạn, và tôi nắm tay bạn, nó chấm dứt. Khi chúng ta không có tình yêu đó, chúng ta luẩn quẩn cùng những từ ngữ. Tôi chắc chắn tất cả những người chuyên nghiệp bỏ lỡ mấu chốt đó.

 Vì vậy vấn đề của chúng ta là làm thế nào gặp gỡ, đến cùng nhau tại cùng thời gian, tại cùng mức độ, bằng cùng mãnh liệt. Đó là nghi vấn thực sự. Chúng ta làm điều đó khi có tình dụcchúng ta gọi là thương yêu. Ngược lại, bạn đấu tranh cho chính bạn và tôi đấu tranh cho chính tôi. Đây là vấn đề. Liệu tôi, người đang đau khổ, có thể nói, ‘Hãy để chúng tôi đến cùng nhau, hãy để chúng tôi cùng nhau nói chuyện về nó’, và không phải nói về điều gì Nagarjuna, Sankara và những người khác giải thích.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6193)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7264)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6780)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6204)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5690)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4955)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5371)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6680)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5978)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12038)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5760)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7063)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5515)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5908)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4927)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4472)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8256)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6554)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7428)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5841)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5501)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6438)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6772)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7574)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4901)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4655)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5282)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12688)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9753)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10502)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10372)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9952)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12046)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10188)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10828)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9949)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8837)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9538)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14580)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8820)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9139)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9375)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8838)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10573)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9253)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8401)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9460)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9033)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9621)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9037)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8409)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8989)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9030)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8790)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9413)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9081)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8823)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4110)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9080)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9930)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant