Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 5 – Bước Đầu tiên là Bước Cuối cùng

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9929)
Đối thoại 5 – Bước Đầu tiên là Bước Cuối cùng

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

New Delhi, 1970

Đối thoại 5

BƯỚC ĐẦU TIÊN

 LÀ BƯỚC CUỐI CÙNG

New Delhi, ngày 19 tháng 12 năm 1970

N

gười hỏi P: Ngày hôm qua, khi chúng ta đang dạo bộ, anh đã nói bước đầu tiên là bước cuối cùng. Muốn hiểu rõ câu nói đó, tôi nghĩ chúng ta nên thâm nhập vấn đề của thời gian và liệu có một sự việc như là trạng thái cuối cùng của sự khai sáng. Sự hoang mang nảy sinh bởi vì những cái trí của chúng ta bị quy định để suy nghĩ về sự khai sáng như một trạng thái cuối cùng. Liệu hiểu rõ hay khai sáng là một trạng thái cuối cùng?

Krishnamurti: Bạn biết, khi chúng ta đã nói bước đầu tiên là bước cuối cùng; liệu chúng ta không đang nghĩ về thời gian như một chuyển động ngang hay một chuyển động dọc? Liệu chúng ta không đang suy nghĩ về chuyển động trên một mặt phẳng? Ngày hôm qua chúng ta đang nói, khi chúng ta đang dạo bộ, liệu chúng ta có thể xóa sạch hoàn toàn chiều cao, chuyển động ngang và chuyển động dọc, và quan sát sự kiện này, rằng dù chúng ta ở bất kỳ nơi đâu, tại bất kỳ mức độ nào của tình trạng bị quy định, của hiện diện, sự nhận biết của sự thật, của sự kiện, tại ngay khoảnh khắc đó là bước cuối cùng.

 Tôi là một người thư ký trong một văn phòng nhỏ, cùng những đau khổ dính dáng trong nó; người thư ký lắng nghe và nhận biết. Người đó lắng nghe và tại khoảnh khắc đó thực sự ‘thấy’. Thấy đó và nhận biết đó là bước đầu tiên và bước cuối cùng. Bởi vì, tại khoảnh khắc đó anh ấy đã hiệp thông cùng sự thật và anh ấy thấy cái gì đó rất rõ ràng.

 Nhưng điều gì xảy ra sau đó là, anh ấy muốn nuôi dưỡng trạng thái đó. Sự nhận biết, sự giải thoát và chính sự nhận biết sáng tạo sự giải thoát; anh ấy muốn tiếp tục, biến nó thành một qui trình. Và thế là anh ấy bị trói buộc và mất đi toàn bộ chất lượng của sự nhận biết.

 Vì vậy điều gì chúng ta đang nói là, bất kỳ qui trình nào đều hàm ý sự kết thúc. Nó là một chuyển động từ chuyển động ngang đến chuyển động dọc; chuyển động dọc dẫn đến một kết thúc. Và thế là, chúng ta nghĩ rằng sự nhận biết, sự giải thoát là một kết thúc; một vị trí mà không có chuyển động. Rốt cuộc, những phương pháp, những luyện tập, những hệ thống hàm ý một qui trình hướng về một kết thúc.

 Nếu khôngý tưởng thuộc khái niệm của sự kết thúc, sẽ không có qui trình.

P: Toàn cấu trúc của suy nghĩ được thiết lập trên một chuyển động ngang và vì vậy bất kỳ nguyên lý nào của vĩnh cửu đều phải ở trên mặt phẳng ngang.

Krishnamurti: Chúng ta quen thuộc với việc đọc một quyển sách theo hàng ngang. Mọi thứ đều hàng ngang – tất cả những quyển sách của chúng ta.

P: Mọi thứ đều có một khởi đầu và một kết thúc.

Krishnamurti: chúng ta nghĩ chương sách đầu tiên chắc chắn phải dẫn đến chương sách cuối cùng. Chúng ta cảm thấy tất cả những luyện tập đều dẫn đến một kết thúc; đến một giải thoát. Tất cả nó đều là đọc hàng ngang. Những cái trí, những hai mắt và những thái độ của chúng ta đều bị quy định để vận hành trên mặt phẳng ngang và tại khúc cuối, có một kết thúc. Quyển sách đọc xong. Bạn hỏi liệu sự thật hay sự khai sáng là một thành tựu cuối cùng; một điểm kết thúc vượt khỏi mà không có gì cả?

P: Từ đó không thể có rơi lại. Có lẽ vì một nhận biết tích tắc, và chất lượng của cái đó, tôi hiểu rõ. Một chốc lát sau, suy nghĩ nảy ra lại. Tôi tự nhủ với mình ‘Tôi quay lại trạng thái cũ’. Tôi nghi ngờ liệu ‘tiếp xúc’ đó có bất kỳ giá trị nào không. Tôi đặt ra một khoảng cách, một ngăn cản giữa tôi và trạng thái đó – tôi nói, nếu cái đó là đúng thực, suy nghĩ sẽ không nảy ra.

Krishnamurti: Tôi thấy; tôi nhận biết cái gì đó lạ thường; cái gì đó đúng thực. Tôi muốn tiếp tục sự nhận biết đó; cho nó một tiếp tục để cho sự nhận biết – hành động tiếp tục qua sống hàng ngày của tôi. Tôi nghĩ đó là nơi sự sai lầm bắt đầu. Cái trí đã thấy cái gì đó đúng thực. Từng đó đủ rồi. Cái trí đó là một cái trí hồn nhiên, rõ ràng, không bị tổn thương. Cái trí đó muốn tiếp tục nhận biết đó qua những hoạt động hàng ngày. Cái trí đã thấy cái gì đó rất rõ ràng. Hãy thả nó ở lại đó. Bước kế tiếp là bước kết thúc. Thả nó ở lại đó là bước kết thúc kế tiếp. Bởi vì cái trí của tôi sẵn sàng trong sáng rồi để thâu nhận bước kết thúc kế tiếp. Trong chuyển động hàng ngày của sự sống, nó không mang qua. Sự nhận biết đã không trở thành hiểu biết.

P: Cái tôi như người làm liên quan đến suy nghĩ hay thấy phải kết thúc.

Krishnamurti: Chết đi cái sự việc mà là đúng thực. Ngược lại, nó trở thành ký ức, mà tiếp theo trở thành suy nghĩ, và suy nghĩ nói làm thế nào tôi sẽ tiếp tục trạng thái đó. Nếu cái trí thấy rõ ràng, và nó chỉ có thể thấy rõ ràng khi thấy là kết thúc của nó, vậy thì cái trí có thể bắt đầu một chuyển động nơi bước đầu tiên là bước cuối cùng. Trong việc này không có dính dáng qui trình nào cả. Không có yếu tố của thời gian. Thời gian len lỏi vào khi, bởi vì đã thấy nó rõ ràng, đã nhận biết được nó, có một mang qua và vận dụng nó cho biến cố kế tiếp.

P: Mang qua đó là không thấy hay không nhận biết.

Krishnamurti: Vì vậy, tất cả những tiếp cận thuộc truyền thống mà đưa ra một qui trình phải có một vị trí, một kết luận, một kết thúc và bất kỳ cái gì mà có một kết thúc, một vị trí cố định, không là sự việc đang sống gì cả.

 Giống như nói rằng có nhiều con đường dẫn đến nhà ga. Nhà ga bị cố định.

 Liệu sự thật là một kết thúcmột lần bạn đã đạt được nó, mọi thứ đều chấm dứt – những lo âu của bạn, những sợ hãi của bạn và vân vân? Hay liệu nó làm việc một cách hoàn toàn khác hẳn? Liệu nó có nghĩa rằng ngay khi tôi ở trên xe lửa, không gì có thể xảy đến cho tôi? Liệu nó có nghĩa rằng tôi chờ đợi chiếc xe lửa sẽ mang tôi đến điểm đến của tôi? Tất cả những việc này là những chuyển động ngang.

 Vì vậy một qui trình hàm ý một điểm cố định. Những hệ thống, những phương pháp, những luyện tập, tất cả đều cống hiến một vị trí cố định và hứa hẹn với con người rằng khi anh ấy thành tựu nó, tất cả những phiền muộn đều chấm dứt. Liệu có cái gì đó mà thực sự không thời gian? Một vị trí cố định là trong thời gian. Nó ở trong thời gian bởi vì bạn đã công nhận nó. Bởi vì đã có suy nghĩ liên tục về vị trí kết thúc, và suy nghĩ về nó là thời gian. Liệu người ta có thể bắt gặp cái này mà phải không-thời gian, không-qui trình, không-hệ thống, không-phương pháp, không-phương cách?

 Liệu cái trí này mà quá bị quy định theo chiều ngang có thể, liệu cái trí này, khi biết rằng nó sống theo chiều ngang, có thể nhận biết ‘cái đó’ mà cũng không thuộc chiều ngang lẫn không thuộc chiều dọc? Liệu nó có thể nhận biết trong một tích tắc? Liệu nó có thể nhận biết rằng ‘thấy’ đã xóa sạch và kết thúc nó? Trong việc này là bước đầu tiên và bước cuối cùng bởi vì nó đã thấy mới mẻ lại.

 Câu hỏi của bạn là, liệu một cái trí như thế có khi nào được tự do khỏi phiền muộn? Tôi nghĩ đó là một câu hỏi sai lầm. Bạn vẫn còn đang suy nghĩ dựa vào sự kết thúc, khi bạn đặt ra câu hỏi đó. Bạn đã đi đến một kết luận rồi, và thế là quay lại vào qui trình ngang.

P: Sự tinh tế của nó là rằng cái trí phải đặt ra những nghi vấn cơ bản nhưng không bao giờ ‘làm thế nào’.

Krishnamurti: Tuyệt đối. Tôi thấy rất rõ ràng; tôi nhận biết. Sự nhận biết là ánh sáng. Tôi muốn mang nó qua như ký ức, như suy nghĩ, và áp dụng nó vào sống hàng ngày và thế là tôi giới thiệu sự phân hai, xung đột, mâu thuẫn.

 Vì vậy tôi nói làm thế nào tôi sẽ vượt khỏi nó? Tất cả những hệ thống đều cống hiến một qui trình, một vị trí cố định và sự kết thúc tất cả phiền muộn.

 Nhận biết là ánh sáng cho cái trí này. Nó không còn quan tâm đến sự nhận biết nữa bởi vì nếu nó quan tâm, nó trở thành ký ức. Liệu cái trí, khi thấy cái gì đó rất rõ ràng, có thể kết thúc sự nhận biết đó? Vậy là, ở đây chính bước đầu tiên là bước cuối cùng. Cái trí trong sáng để nhìn ngắm. Đối với một cái trí như thế, liệu có thể có kết thúc cho tất cả những phiền muộn? Nó không đặt ra một câu hỏi như thế. Khi nó xảy ra, nó sẽ thấy. Thấy điều gì xảy ra. Khi tôi đặt ra câu hỏi ‘Liệu cái này sẽ kết thúc tất cả phiền muộn?’ Tôi đang suy nghĩ về tương lai rồi và thế là tôi bị trói buộc trong thời gian.

 Nhưng tôi không quan tâm. Tôi nhận biết. Nó chấm dứt. Tôi thấy cái gì đó rất rõ ràng – sự rõ ràng của nhận biết. Sự nhận biết là ánh sáng. Nó chấm dứt. Thế là cái trí không bao giờ bị trói buộc trong thời gian. Bởi vì, mỗi lần tôi đã sử dụng bước đầu tiên, tôi cũng đã sử dụng bước cuối cùng.

 Vì vậy chúng ta thấy rằng tất cả những qui trình, tất cả những hệ thống, phải hoàn toàn bị khước từ bởi vì chúng làm tiếp tục thời gian. Qua thời gian bạn hy vọng đến được cái không-thời gian.

P: Tôi thấy rằng những dụng cụ được sử dụng trong điều gì anh đang nói là sự kiện của thấy và lắng nghe. Đây là những chuyển động thuộc giác quan. Do bởi qua những chuyển động thuộc giác quantình trạng bị quy định cũng hiện diện. Cái gì mà khiến cho một chuyển động làm tan biến hoàn toàn tình trạng bị quy định và một chuyển động khác lại củng cố nó?

Krishnamurti: Tôi lắng nghe câu hỏi đó như thế nào. Trước hết, tôi không biết. Tôi sắp sửa học hành. Nếu tôi học hành với mục đích thâu lượm hiểu biết, mà từ đó tôi sẽ hành động, hành động đó trở thành máy móc. Nhưng khi tôi học hành mà không tích lũy – mà có nghĩa nhận biết, nghe, mà không thâu lượm – cái trí luôn luôn trống không. Vậy thì câu hỏi là gì?

 Liệu cái trí trống không có khi nào bị quy định và tại sao nó phải bị quy định. Một cái trí thực sự đang lắng nghe, liệu nó có thể bị quy định? Nó luôn luôn đang học hành, nó luôn luôn trong chuyển động. Nó không là một chuyển động từ cái gì đó hướng về cái gì đó. Một chuyển động không thể có một khởi đầu và một kết thúc. Nó là cái gì đó sinh động, không bao giờ bị quy định. Một cái trí mà thâu lượm hiểu biết để vận hành bị quy định bởi hiểu biết riêng của nó.

P: Liệu nó là cùng một dụng cụ đang vận hành trong cả hai?

Krishnamurti: Tôi không biết. Tôi thực sự không biết. Cái trí chất đầy hiểu biết thấy tùy theo hiểu biết đó, tùy theo tình trạng bị quy định đó.

P: Thưa anh, thấy giống như bật đèn. Nó không có quy định trong chính nó.

Krishnamurti: Cái trí chất đầy những hình ảnh, những từ ngữ, những biểu tượng. Qua đó, nó suy nghĩ, nó thấy.

P: Nó thấy à?

Krishnamurti: Không. Tôi có một hình ảnh về bạn và tôi thấy qua hình ảnh đó. Đó là sự biến dạng. Hình ảnhtình trạng bị quy định của tôi. Nó vẫn còn ở trong cùng thùng chứa với tất cả những vật trong nó, và nó là cùng thùng chứa mà không có vật gì trong nó.

 Những vật của thùng chứa là thùng chứa. Khi không có những vật, thùng chứa không còn hình thể.

P: Vì vậy nó có thể thâu nhận ‘cái gì là’.

Krishnamurti: Sự nhận biết chỉ có thể xảy ra được khi không có hình ảnh. Điều đó rất đơn giản. Để giải thích lại, bạn thấy, sự nhận biết chỉ có thể xảy ra được khi không có hình ảnh – không-biểu tượng, không-ý tưởng, không-từ ngữ, không-hình thức, mà tất cả đều là hình ảnh. Vậy thì, sự nhận biết là ánh sáng. Không phải rằng tôi thấy ánh sáng. Có ánh sáng. Sự nhận biết là ánh sáng. Vì vậy, sự nhận biết là hành động. Và một cái trí chất đầy những hình ảnh không thể nhận biết. Nó thấy qua hình ảnh và thế là bị biến dạng.

 Điều gì chúng ta đã nói là đúng thực. Nó rất chính đáng. Tôi đã lắng nghe điều này. Trong nhân tố của lắng nghe không có ‘cái tôi’. Trong nhân tố của mang nó qua có ‘cái tôi’. ‘Cái tôi’ là thời gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6193)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7263)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6780)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6202)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5689)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4955)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5371)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6677)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5978)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12036)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5760)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7063)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5515)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5907)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4926)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4471)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8256)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6552)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7427)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5841)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5501)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6438)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6772)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7574)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4901)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4654)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5281)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12685)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9747)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10502)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10372)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9950)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12044)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10186)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10825)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9945)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8837)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9537)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14578)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8819)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9137)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9375)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8833)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10572)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9251)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8395)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9458)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9033)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9621)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9036)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8407)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8987)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9027)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8788)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9412)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9080)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8821)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4110)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9080)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9925)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant