Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đối thoại 15 – Bản chất của sự Thâm nhập

14 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 9937)
Đối thoại 15 – Bản chất của sự Thâm nhập

J. KRISHNAMURTI
TRUYỀN THỐNGCÁCH MẠNG
TRADITION AND REVOLUTION
Lời dịch: Ông Không
 Tháng 7 - 2011

Madras, 1971

Đối thoại 15

BẢN CHẤT CỦA SỰ THÂM NHẬP

Madras, ngày 7 tháng 1 năm 1971

N

gười hỏi A: Tất cả sống của chúng ta, chúng ta đã và đang suy nghĩ dựa vào nguyên nhânvận hành vào nguyên nhân. Toàn sống của chúng ta đang sống cùng nguyên nhân, đang tìm ra nguyên nhân và đang cố gắng kiểm soát nguyên nhân. Thậm chí khi chúng ta biết nguyên nhân, chúng ta không thể vận hành vào nó. Đây cũng là một bộ phận thuộc trải nghiệm của chúng ta. Phật đã khám phá nguyên nhân của đau khổ và đã được giải thoát khỏi đau khổ. Anh nói nguyên nhânhậu quảhậu quảnguyên nhân, và cũng vậy anh vạch rõ rằng trong nguyên nhânhậu quả này, thời gian là điều không thể tránh được. Thậm chí sau khi lắng nghe anh, ảnh hưởng của nguyên nhân và đang vận hành vào nguyên nhân đã trở thành một bộ phận tổng thể của suy nghĩ của người ta. Chúng ta có thể thâm nhập điều này?

Krishnamurti: Câu hỏi là gì?

A: Thâm nhập giá trị của chuỗi nguyên nhân-hậu quả trong khía cạnh của hiểu rõ.

Krishanmurti: Nó có nghĩa gì – thâm nhập? Trạng thái của cái trí mà thâm nhập là gì thay vì sự kiện của thâm nhập là gì? Bạn nói tất cả hành động có một nguyên nhân, và nguyên nhân đó gây ảnh hưởng hành động và nếu không hiểu rõ nguyên nhân, dù làm điều gì bạn muốn cùng hành động, nó sẽ luôn luôn bị giới hạn. Vì vậy thâm nhập nguyên nhân, hiểu rõ nguyên nhân và thế là tạo ra một thay đổi trong hành động.

 Tôi không biết nguyên nhân của hành động của tôi. Có lẽ có những nguyên nhân rõ ràng và những nguyên nhân khác mà không thể phát giác được bởi cái trí tầng ý thức bên ngoài. Tôi có thể thấy những nguyên nhân hời hợt cho hành động; nhưng những nguyên nhân hời hợt này có những gốc rễ rất sâu thẳm trong những ngõ ngách thuộc thân tâm riêng của người ta.

 Lúc này, liệu cái trí tầng ý thức bên ngoài có thể không những thâm nhập những tầng hời hợt nhưng còn lật tung những tầng sâu thẳm hơn. Liệu cái trí tầng ý thức bên ngoài có thể thâm nhập những tầng sâu thẳm hơn? Và trạng thái của cái trí mà thâm nhập là gì? Ba nghi vấn này là quan trọng. Ngược lại, sự khám phá nguyên nhân không có ý nghĩa gì cả.

R: Anh thâm nhập khi anh không biết.

Krishnamurti: Trước tiên chúng ta đã hỏi chất lượng của cái trí mà đang thâm nhập là gì? Nó đang thâm nhập cái gì – những nguyên nhân hời hợt hay những nguyên nhân được giấu giếm thật sâu thẳm? Vì vậy trước khi tôi bắt đầu thâm nhập, tôi phải tìm ra trạng thái của cái trí mà thâm nhập. Lúc này, trạng thái của cái trí, chất lượng của cái trí mà có thể thâm nhập là gì? Bạn nói Phật đã nói điều này, người nào đó đã nói điều đó, và vân vân, nhưng chất lượng của cái trí mà có khả năng, mà có thể thâm nhập là gì? ‘Cái tôi’ mà thâm nhập là gì – liệu nó quanh co, cận thị, viễn thị? Tôi phải tìm ra chất lượng của cái trí mà nhìn ngắm tấm thảm trước khi tôi có thể thấy bất kỳ cái gì. Chắc chắn, nó phải là một cái trí tự do. Liệu bạn có một cái trí được tự do khỏi bất kỳ kết luận nào? Ngược lại bạn không thể thâm nhập.

A: Chúng ta đã không chấp nhận những quy địnhchúng ta thấy và buông bỏ chúng.

Krishnamurti: Điều gì bạn đang thực hiện là sự phân tích. Bạn đang phân tích từng bước một. Khi bạn phân tích, điều gì xảy ra? Có người phân tích và vật được phân tích. Người phân tích phải có thị lực tinh tường để phân tích, và nếu trong bất kỳ cách nào sự phân tích này bị biến dạng, nó không có giá trị gì cả. Qui trình thuộc trí năng, thuộc phân tích hàm ý thời gian. Trước thời gian bạn tìm hiểu xong, qua sự phân tích, qua thời gian, những nhân tố khác len lỏi vào mà gây biến dạng nguyên nhân. Vì vậy, phương cách của sự phân tích hoàn toàn sai lầm. Vì vậy, phải có một buông bỏ của sự phân tích.

J: Tôi bị hoang mang.

Krishnamurti: Vâng, nó là một sự kiện mà khiến chúng ta bị hoang mang. Chúng ta không biết phải làm gì và chúng ta bắt đầu phân tích.

A: Đối với chúng tôi, qui trình của sự phân tích là cái gì đó cụ thể. Anh đã nói trong khi anh vận hành vào nguyên nhân, vài nhân tố khác nào đó len lỏi vào. Liệu nó có nghĩa sự phân tích của vấn đề trở thành không mạch lạc?

Krishnamurti: Tôi nghĩ toàn qui trình là sai lầm. Tôi quan tâm đến hành động mà được sắp xếp vào chung bởi một chuỗi của những tìm hiểu thuộc phân tích, những hàm ý thuộc phân tích mà trong nó thời gian được bao hàm. Trước thời điểm tôi tìm ra cái gì tôi đã tìm kiếm, tôi bị kiệt sức, chết rồi. Rất khó khăn cho cái trí tầng ý thức bên ngoài khi phân tích, khi tìm hiểu những tầng giấu giếm. Vì vậy, tôi cảm thấy toàn qui trình thuộc trí năng này là sai lầm. Tôi nói điều này mà không có bất kỳ thiếu tôn trọng nào.

A: Chúng tôi chỉ có dụng cụ đó – mảnh trí năng, như một phương tiện của thâm nhập. Ngoại trừ để thâu lượm, hồi tưởng, phân tích, phỏng đoán, liệu mảnh trí năng có thể thâm nhập? Mảnh trí năng có khả năng đó. Nó chỉ là một mảnh. Vì vậy, sự thâm nhập bởi một mảnh chỉ có thể tạo ra một hiểu rõ phân chia. Chúng tôi phải làm gì đây?

R: Tôi không thể làm bất kỳ điều gì cả.

Krishnamurti: Bạn nói mảnh trí năng là dụng cụ duy nhất có khả năng thâm nhập mà người ta có. Nó có khả năng sao? Mảnh trí năng có khả năng thâm nhập hay nó thâm nhập chỉ từng phần? Tôi thấy sự thật của điều đó, không phải như một kết luận, không phải như một quan điểm, nhưng sự kiện rằng mảnh trí năng là một phần có thể thâm nhập chỉ từng phần và vì vậy tôi không còn dùng mảnh trí năng nữa.

A: Một cái trí như thế có thể rơi vào niềm tin. Anh đang nói cái trí ý thức được điều này.

Krishnamurti: Sử dụng thuốc men, toàn bộ việc đó, là bộ phận của cùng hiện tượng

A: Khi cái trí, một cách thiển cận, từ bỏ sự phân tích, nó rơi vào những cái bẫy khác; vì vậy việc này phải được thực hiện một cách nghiêm ngặt cùng mảnh trí năng.

Krishnamurti: Sự phân tích khôngphương cách.

A: Chúng tôi thâm nhập bằng dụng cụ gì? Lý lẽ của chúng tôi phải chứng thực điều gì anh nói.

J: Anh đến đó bằng con đường nào đó mà không thuộc phân tích. Chúng tôi thấy sự chính đáng của nó.

Krishnamurti: Tôi nói với bạn sự phân tích khôngphương cách của hiểu rõ. Tôi trình bày cho bạn những chuỗi liên quan chính đáng khi đang sử dụng lý lẽ. Đó chỉ là một giải thích. Tại sao bạn không thấy sự kiện rằng sự phân tích không là phương cách?

A: Khi anh nói ‘Tôi thâm nhập và đây là như thế’, nó là lý luận thuần túy.

Krishnamurti: Điều gì bạn đã thực hiệnđạt đến một kết luận qua lý luận, nhưng chúng ta không đang nói về lý luận. Lý luận đã dẫn bạn đến sự phân tích. Người nào đó nói lý luận của bạn là sai lầm, bởi vì lý luận của bạn được đặt nền tảng trên sự kiện của trí năng, mà là từng phần; vì vậy thâm nhập từng phần không là thâm nhập gì cả.

A: Nó là sự phân tích thiên vị.

Krishnamurti: Giống như nói rằng tôi thương yêu người vợ của tôi một cách thiên vị.

A: Trong nỗ lực để hiểu rõ môi trường, thiên nhiên, hiện tượng bên ngoài, con người đã phát triển những dụng cụ nào đó và cũng vậy ở đây chúng ta sử dụng cùng những dụng cụ; nhưng chúng không thỏa đáng.

Krishnamurti: Chúng không là không-thỏa đáng. Chúng không trọn vẹn. Sự phân tích, qui trình, bao hàm thời gian. Bởi vì nó ở trong thời gian, nó phải thiên vị. Sự thiên vị bị tạo ra bởi mảnh trí năng, bởi vì mảnh trí năng là bộ phận của toàn cấu trúc.

A: Dụng cụ mà thâm nhập khi anh đặt ra câu hỏi là gì? Khi chúng tôi đặt ra câu hỏi chúng tôi quay trở lại mảnh trí năng.

Krishnamurti: Bạn bắt đầu bằng cách nói rằng mảnh trí năng là dụng cụ duy nhất của thâm nhập. Tôi nói mảnh trí năng là một bộ phận, và, vì vậy, sự thâm nhập của bạn sẽ thiên vị. Vì vậy, sự thâm nhập của bạn không có giá trị.

A: Rất rõ ràng rằng mảnh trí năng là một bộ phận và không thể thấy, nhưng nó bắt đầu làm việc qua thói quen.

Krishnamurti: ‘A’ đã bắt đầu bằng cách nói về nguyên nhân -hậu quả, hậu quả-nguyên nhân – đó là những qui trình của sự phân tích. Sự phân tích hàm ý thời gian và trong phân tích như thế có người phân tích và vật được phân tích. Người phân tích phải được tự do khỏi những chồng chất của quá khứ, ngược lại anh ấy không thể phân tích. Bởi vì anh ấy không được tự do khỏi quá khứ, sự phân tích khônggiá trị. Vì thấy điều đó, tôi nói nó chấm dứtVì vậy, tôi đang tìm kiếm một phương cách khác.

A: Đây là cách tóm tắt ngắn nhất – bằng lý luận, sự lý luận bị xóa sạch.

Krishnamurti: Tôi thấy sự phân tích khôngphương cách. Thấy đó hoàn toàn làm tự do cái trí khỏi một qui trình giả dối. Thế là, cái trí sinh động nhiều hơn. Nó giống như một người đi bộ vác theo một gánh nặnggánh nặng đó được quẳng đi.

A: Nhưng với chúng tôi gánh nặng đó quay lại.

Krishnamurti: Khoảnh khắc bạn nhận biết cái gì đó là đúng thực, làm thế nào nó có thể quay lại? Khoảnh khắc bạn thấy rằng con rắn độc là nguy hiểm, bạn không quay lại con rắn độc.

A: Nagarjuna nói ‘nếu bạn thấy điều gì tôi đang nói như một ý tưởng, bạn chấm dứt.’

J: Liệu có cách nào khác?

A: Anh nói điều gì đó. Khoảnh khắc anh nói điều gì đó, dụng cụ ngừng vận hành, bởi vì dụng cụ đó sẽ không nói bất kỳ điều gì nữa.

Krishnamurti: Nhưng dụng cụ đó rất nhạy bén, rất minh bạch; nó tránh khỏi bất kỳ hành động từng phần nào đang xảy ra.

A:liên tục đang nhìn ngắm, nó có thể vận hành.

Krishnamurti: Không, thưa bạn, toàn qui trình phân tích chấm dứt.

A: Khi chúng ta đã trải qua…này.

Krishnamurti: Không, chúng ta không đang thâm nhập. Tôi đang chỉ cho bạn làm thế nào để thâm nhập. Điều gì bạn đã làm là bạn đã sử dụng mảnh trí năng, dụng cụ thiên vị và nghĩ rằng đó là đáp án trọn vẹn. Hãy thấy làm thế nào cái trí đã lừa gạt chính nó, làm thế nào nó nói ‘Tôi đã phân tích tất cả điều này’, nhưng nó không thấy nó thiên vị như thế nào, và vì vậy nó không có giá trị. Là một dụng cụ tách khỏi những nhân tố khác, chính mảnh trí năng đã trở thành không giá trị. Tôi đang thắc mắc nếu mảnh trí năng không là dụng cụ của sự thâm nhập, vậy thì điều gì xảy ra?

A: Khi người ta đến mấu chốt này, người ta bắt đầu tin tưởng vào sự cần thiết phải được ủng hộ hay được giúp đỡ của chỗ dựa nào đó.

Krishnamurti: Sự kiện là, mảnh trí năng là một dụng cụ không trọn vẹn và không thể hiểu rõ một nhân tố tổng thể, một chuyển động tổng thể. Vậy thì sự thâm nhập là gì? Nếu mảnh trí năng không thể thâm nhập, dụng cụ có thể thâm nhập là gì? Sankara, Nagarjuna, Phật nói gì về điều này? Hãy tìm ra. Liệu có bất kỳ người nào trong số họ phủ nhận mảnh trí năng?

A: Họ nói, thâm nhập cùng sự trợ giúp của cái nền tảng.

Krishnamurti: Đó là cùng sinh lực từng phần, năng lượng từng phần, thâm nhập năng lượng tổng thể. Làm thế nào điều đó có thể được? Tại sao họ đã nói điều này?

R: Ý tưởng của kinh Veda là rằng với mảnh trí năng bạn không thể thấy, nhưng với cái tôi hay cái linh hồn, mà thuộc chính bản chất của sự nhận biết, bạn có thể thấy.

A: Bởi vì những cái trí của chúng tôi đã bị quy định quá nặng nề, khi chúng tôi có chỗ dựa, chúng tôi bám chặt.

Krishnamurti: Điều gì chúng ta muốn tìm ra là, sự phân tích và phương cách của trí năng không là sự thâm nhập gì cả. Nó giống như nói ‘Tôi đi một phần nào đó vào đường hầm.’ Chất lượng của cái trí là gì nếu mảnh trí năng không là dụng cụ?

A: Khi mảnh trí năng hoàn toàn bị gạt đi, lúc đó trong cái trí không có gì thuộc về quá khứ.

Krishnamurti: Nó là gì mà phải gạt đi? Vậy thì bạn quay trở lại nguyên tắc phân hai.

A: Chúng tôi thấy mảnh trí năng là từng phần.

Krishnamurti: Vì vậy, chúng ta đang hỏi: Chất lượng của cái trí mà có thể thâm nhập – cái trí không chỉ là mảnh trí năng nhưng còn là những tế bào não, những sinh học, những vật chất, những hệ thần kinh, toàn sự việc, cái tổng thể, cái trọn vẹn – mà có thể thâm nhập là gì? Chất lượng của cái trí mà có thể thâm nhập là gì? Tôi thấy rằng bất kỳ chuyển động từng phần nào là không trọn vẹn và, không dẫn đến bất kỳ nơi nào. Tôi thấy rằng thấy từng phần là không thấy gì cả, và vì vậy tôi chấm dứt nó. Nó hoàn toàn qua rồi. Tiếp theo cái trí hỏi, bản chất của cái trí là gì mà là tổng thể? Và chỉ có một nhận biết tổng thể như thế mới có thể thâm nhập. Và nó có lẽ không cần thâm nhập gì cả, bởi vì cái mà phải được thâm nhập cũng thuộc một mảnh của cánh đồng – sự phân chia, sự phân tích, sự thâm nhập.

 Tôi đang hỏi sự nhận biết tổng thể là gì, chất lượng của sự nhận biết tổng thể là gì?

A: Chuyển động của bất kỳ loại nào không thể là sự nhận biết tổng thể.

Krishnamurti: Sự nhận biết tổng thể là gì?

R: Có vẻ như thể không có dụng cụ bởi vì dụng cụ phụ thuộc vào cái gì đó.

Krishnamurti: Sự khó khăn là gì? Khi bạn nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy những bụi cây này, bạn nhìn chúng như thế nào? Bạn thường đang suy nghĩ về cái gì đó và tại cùng thời gian đó bạn đang nhìn. Tôi nói bạn phải nhìn, đó là tất cả. Sự khó khăn là gì? Chúng ta không bao giờ nhìn. Nếu tôi nhìn một bức tranh, tôi nhìn. Tôi không nói họa sĩ này là thế này và thế này, họa sĩ này giỏi hơn họa sĩ khác. Tôi không có đo lường. Tôi không diễn đạt bằng từ ngữ. Vừa lúc nãy chúng ta đã nói nhìn từng phần không là nhìn gì cả, vì vậy, cái trí đã chấm dứt từng phần, vì vậy khi tôi nhìn, tôi nhìn.

R: Yếu tố của thói quen quá mãnh liệt.

Krishnamurti: Vậy là, cái trí mà bị trói buộc trong thói quen không thể thâm nhập. Vì vậy, chúng ta phải thâm nhập cái trí mà bị trói buộc trong thói quen và không phải sự thâm nhậpChúng ta phải hiểu rõ thói quen. Quên đi sự thâm nhập, nguyên nhân, phân tích. Quên đi tất cả điều đó. Liệu cái trí có thể hiểu rõ thói quen? Chúng ta hãy giải đáp nghi vấn đó.

A: Bất kỳ điều gì anh nói cùng mảnh trí năngthiên vị.

Krishnamurti: Hãy thấy sự thật của nó, không phải lý luận về nó. Bạn có thể đưa vào lý luận sau đó. Điều gì bạn đã nghĩ đã là cái cửa không là cái cửa. Bạn sẽ không chuyển động hướng về điều đó ngay khi bạn thấy nó, nhưng bạn không thấy nó.

R: Sự khác nhau giữa nhận biếtcông nhận là gì? Đối với chúng tôi sự nhận biết chỉ hiện diện ở đó trong hình thức của công nhận.

Krishnamurti: Bạn công nhận qua liên tưởng. Công nhận là bộ phận của thói quen liên tưởng. Vì vậy, tôi đang nói bạn không thể thâm nhập, khám phá bằng cái trí quen thuộc với thói quen. Vì vậy, hãy tìm ra hệ thống máy móc của thói quen. Không tìm ra làm thế nào để thâm nhập, nhưng hãy tìm ra thói quen là gì.

A: Những thói quen là những khe rãnh.

Krishnamurti: Làm thế nào những thói quen đã được hình thành? Đó là cái cửa. Tôi đang đi qua cái cửa đó, lúc này tại sao cái trí lại rơi vào thói quen? Thói quen là gì? Làm thế nào cái trí rơi vào thói quen? Tôi sẽ phân tích nó.

 Chúng ta sử dụng sự phân tích mà là từng phần, mà không là hiểu rõ tổng thể. Biết rằng nó không có giá trị, chúng ta vẫn tiếp tục – tại sao cái trí rơi vào thói quen? Liệu có phải bởi vì đó là phương cách dễ dàng nhất để vận hành? Thức dậy vào lúc sáu giờ, đi ngủ vào lúc bảy giờ. Không có xung đột. Tôi không phải suy nghĩ về nó.

A: Tôi ngìn ngắm một cái cây. Tôi không phải suy nghĩ về nó. Và tuy nhiên cái trí nói nó là một cái cây.

Krishnamurti: Nó là một thói quen. Tại sao cái trí rơi vào thói quen? Nó là cách dễ dàng nhất để sống; dễ dàng khi sống một cách máy móc. Tình dục và trong mọi phương cách khác, dễ dàng khi sống theo cách đó. Tôi có thể sống một sống mà không có nỗ lực, không thay đổi, bởi vì trong đó tôi tìm thấy sự an toàn hoàn toàn. Trong thói quen không có sự thâm nhập, đang tìm kiếm, đang dò hỏi.

R: Tôi sống trong lãnh vực của thói quen.

Krishnamurti: Vì vậy thói quen chỉ có thể vận hành trong một lãnh vực rất nhỏ. Giống như một giáo sư rất giỏi nhưng vận hành trong một lãnh vực rất nhỏ; giống như một thầy tu vận hành trong một ngăn rất nhỏ. Cái trí muốn an toàn, bảo đảm, không thay đổi, sống trong những khuôn mẫu. Đó là một thâm nhập từng phần. Nhưng nó không làm tự do cái trí khỏi những khuôn mẫu. Vì vậy tôi sẽ làm gì?

A: Vì đã thấy điều này, vì biết rằng hiểu rõ từng phần không là hiểu rõ gì cả, làm thế nào cái trí hoàn toàn tự-giải thoát chính nó khỏi thói quen.

Krishnamurti: Tôi sẽ giải thích cho bạn.

A: Chúng tôi đã thâm nhập thói quen, nhưng cái trí không thoát khỏi nó.

Krishnamurti: Bạn sẽ không bao giờ quay lại sự phân tích của thói quen. Bạn sẽ không còn thâm nhập những nguyên nhân của thói quen. Thế là, cái trí được tự do khỏi gánh nặng của sự phân tích mà là bộ phận của thói quen. Vì vậy, bạn đã loại bỏ nó.

R: Vâng, vâng –

Krishnamurti: Không. Nó phải biến mất. Không phải chỉ bằng những từ ngữ. Thói quen không chỉ thuộc triệu chứng, nhưng nó còn thuộc hệ thần kinh thân thể. Khi chúng ta đã thâm nhập thói quen như chúng ta đã thực hiện, nó chấm dứt.

A: Chúng tôi không được tự do khỏi thói quen.

Krishnamurti: Bởi vì bạn vẫn còn đang quả quyết cái cửa hiện diện ở đó. Chúng ta đã khởi sự bằng cách nói ‘Tôi biết’. Có một ý thức nào đó của sự kiêu ngạo. Bạn không nói ‘Tôi muốn tìm ra.’

 Vậy thì, sự nhận biết tổng thể là gì khi cái trí được tự do khỏi thói quen? Thói quen hàm ý những kết luận, những công thức, những ý tưởng, những nguyên tắc. Tất cả những điều này là những thói quen. Thói quenbản thể của người quan sát.

R: Nó là tất cả mà chúng tôi biết về ‘cái tôi’.

Krishnamurti: Muốn tìm ra điều này, tôi dựa vào một quyển sách. Đó là nơi sự phá hoại được thực hiện, sự phá hoại mà những người khác đã thiết lập, những Sankara, những Phật và tất cả những người khác. Tôi thích người này hơn, tôi thích người khác hơn, và vân vân. Tôi sẽ không từ bỏ bởi vì đó là sự kiêu ngạo của tôi. Tôi tranh cãi. Bạn biết tranh hoạt hình mà diễn tả ‘Đạo sư của tôi có nhiều khai sáng hơn đạo sư của bạn’. Đó là tất cả. Vì vậy, thưa bạn, khiêm tốn là cần thiết. Tuyệt đối tôi không-biết gì cả và tôi sẽ không lặp lại một từ ngữ nào mà chính tôi đã không tìm ra. Tôi thực sự không muốn biết. Tôi biết đây không là phương cách. Tôi không muốn biết bất kỳ điều gì thêm nữa. Đó là tất cả. Cái cửa mà tôi đã nghĩ đã là thực sự không là cái cửa. Điều gì xảy ra sau đó? Tôi không chuyển động trong phương hướng đó, tôi sẽ tìm ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6193)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7264)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6780)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6204)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5690)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4955)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5371)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6680)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5978)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12038)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5760)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7063)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5515)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5908)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4927)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4472)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8256)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6554)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7428)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5841)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5501)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6438)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6772)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7574)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4901)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4655)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5282)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12688)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9752)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10502)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10372)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9952)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12046)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10188)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10828)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9949)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8837)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9538)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14580)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8820)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9138)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9375)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8838)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10573)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9253)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8401)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9460)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9033)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9621)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9037)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8409)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8989)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 9030)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8790)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9413)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9080)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8823)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4110)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9080)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9930)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant