Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương Một: Ra Đời

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7781)
Chương Một: Ra Đời

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan 
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN MỘT

Kể về tên bên họ nội, Mila, nguồn gốc của tổ tiên ngài, và lúc sinh ra đời.

Như thế nào trong thời nhỏ tuổi, sau cái chết của cha, những bà con gần nhất khởi lên thù địch với ngài ; và như thế nào, khi bị tước lột tất cả mọi sở hữu cả ngoài lẫn trong, ngài hiểu biết những bề sâu thăm thẳm của toàn bộ khổ đau. Cuối cùng, như thế nào, trước sự khẩn khoản của mẹ, ngài đã hủy diệt những kẻ thù bằng hành vi pháp thuật.

Đó là ba chương đầu của câu chuyện kỳ diệu này.

 

CHƯƠNG MỘT
RA ĐỜI

Câu chuyện được bắt đầu bằng lời mở đầu sau đây :

Ôi kỳ diệu ! Một lần khi ở trong động Dopapuhk (Động Như Cái Bao Tử) vùng Nyanang, Đạo sư danh tiếng Mila Zhepa Dorje (Kim Cương Cười), một Heruka tối thượng giữa mọi thiền giả,(1) được các đại đệ tửtín đồ, những thiền giả chứng ngộ và những Đại Bồ tát vây quanh : Retchung Dorje Drakpa (Kim Cương Danh Tiếng), Shiwa OŠ Repa (Ánh Sáng Bình Yên), Ngandzong Repa, Seban Repa, Khira Repa (Người Thợ Săn), Digom Repa, Len Repa, Sangye Kyab Repa (Người Che Chở Giác Ngộ), Shengom Repa (Ẩn Sĩ họ Shen), Dampa Gyalpuhwa (vị Thánh họ Gyakpuh), Đạo sư Shakyaguna và những vị khác. Cũng có những nữ tín đồ : Legse Bum (Trăm Ngàn Công Đức) và Shen Dormo (Kim Cương họ Shen) cùng với những đệ tử cư sĩ khác. Trong chúng hội cũng có Tshering Chenga (Năm Sư Tỷ Bất Tử) và những dakini khác đã thành tựu thân vi tế. Vẫn còn những vị khác – chư thiên, đàn ông và đàn bà – tụ hội ở đây. Đạo sư đang chuyển Bánh Xe Thánh Pháp phù hợp với giáo lý Đại thừa.

Vào thời gian đó Retchung đang thiền định trong cốc của mình. Một đêm nọ, ông có giấc mộng thế này : Trong một xứ sở thú vị gọi là Ugyen (Nơi Chốn của những Dakini), ông đi vào một đô thành lớn, nhà cửa xây dựng và lợp bằng chất liệu quý giá. Cư dân của đô thành ấy đẹp đẽ lạ lùng, mặc áo tơ lụa và trang sức bằng xương và đá quý. Họ không nói gì, mà chỉ mỉm cười vui vẻtrao đổi những cái nhìn.

Trong số đó có một nữ đệ tử của Lama Tepuhwa, tên là Bharima, người mà Retchung đã quen biết trước kia ở Nepal. Bà mặc y phục màu đỏ và có vẻ là người cầm đầu của họ. Bà nói với Retchung, “Này con, con đã đến ! Xin chúc mừng !” Nói rồi, bà dẫn ông đến một cung điện làm bằng đá quý và đầy những kho tàng châu báu làm giác quan thích thú. Bà đối xử với ông như một vị khách danh dự và cho dọn trước mặt ông một đại tiệc.

Rồi bà nói, “Vào lúc này, đức Phật Bất Động đang thuyết pháp ở Ugyen. Này con, nếu con muốn đến nghe pháp ta sẽ xin phép Ngài.”

Tha thiết muốn được nghe Ngài, Retchung trả lời, “Vâng, vâng !” Và họ cùng đi.

trung tâm đô thành, Retchung thấy một cái ngai vĩ đại cao lớn bằng các châu báu. Trên ngai đức Phật Bất Động đang ngự rực rỡ và cao hơn ông đã quán tưởng trong thiền định. Ngài đang dạy pháp giữa một đại dương mênh mông những đệ tử. Trước cảnh tượng này, uống say với niềm vui, Retchung ngỡ là đã bị ngất đi. Bấy giờ, Bharima nói với ông, “Con hãy ở đây một lát, ta sẽ xin phép đức Phật.”

Bà tiến lên và ý nguyện được chấp thuận. Do bà dẫn dắt, Retchung lễ lạy dưới chân Phật. Ông xin được ban phước và ở trước Ngài lắng nghe giáo pháp.

Phật nhìn vào ông một lúc miệng mỉm cười, và Retchung thầm nghĩ, “Ngài nghĩ đến con với lòng bi mẫn.” Khi nghe về lịch sử đản sanh và đời sống của chư Phật và chư Bồ tát, lông tóc trên thân Retchung rung động, và lòng tin hứng khởi sâu xa.

Cuối cùng, Phật kể câu chuyện của Tilopa, Naropa và Marpa,(2) còn lạ lùng hơn cả những vị trước. Và mọi người đều cảm thấy lòng tin tràn ngập.

Khi chấm dứt, Phật nói, “Ngày mai Ta sẽ kể câu chuyện của Milarepa, một tiểu sử còn kỳ diệu hơn những vị Ta đã vừa kể. Mọi người hãy đến nghe.”

Bây giờ một số đệ tử nói rằng, “Nếu có những công hạnh còn kỳ diệu hơn những vị chúng ta đã được nghe, thì sự kỳ diệu ấy phải vượt mọi giới hạn.” Những người khác nói, “Những đức hạnh vừa được hiển lộ là kết quả của những công đức tích tập qua vô số kiếp và sự diệt trừ mê vọngtham luyến. Còn Milarepa, trong một đời và trong một thân, lại đạt đến một sự hoàn thiện tương đương.” Những người trước lại nói, “Quả thật, nếu chúng ta không thỉnh cầu một lời dạy kỳ diệu như vậy để cho sự tốt đẹp của chúng sanh, chúng ta sẽ là những đệ tử không xứng đáng. Chúng ta phải cố gắng toàn tâm và toàn lực để có được tiểu sử ấy.”

Người khác hỏi, “Hiện giờ Milarepa ở đâu ?” Có người trả lời, “Ngài đang ở trong cõi Phật Ngonga hay Ogmin.”(3) Bấy giờ Retchung nghĩ, “Hiện thời, Đạo sư đang sống ở Tây Tạng. Tất cả những nhận xét này chắc không có mục đích nào ngoài việc đánh thức sự sốt sắng của mình, bởi thế chắc chắn ta phải hỏi chính thầy về cuộc đời của Đạo sư để cho lợi lạc của tất cả chúng sanh.” Khi Retchung nghĩ như vậy, Bharima nắm tay ông lắc nhẹ và nói, “Này con, con đã hiểu !”

Retchung thức dậy khi bình minh ló dạng. Ông cảm thấy chưa bao giờ tri giác bên trong rõ ràng hơn và sự tham thiền vững chắc hơn. Hồi tưởng lại giấc mộng, ông tiếp tục suy nghĩ, “Tôi đã được nghe Phật Bất Động thuyết pháp giữa hội chúng dakini ở Ugyen. Điều đó quả là kỳ diệu. Nhưng còn kỳ diệu hơn là gặp Đạo sư tôn quý của tôi, ngài Mila. Đã được nghe Phật Bất Động là một ban phước từ Đạo sư tôn quý. Có nói rằng Đạo sư đang sống ở Ngonga hay Ogmin.” Và Retchung tự trách mình, “Ngu ngốc làm sao khi nghĩ rằng Đạo sư đang sống ở Tây Tạng ! Đó là chính ngươi tự đặt mình vào mức độ của ngài và như vậy là đã tỏ ra thiếu tôn kính. Trước hết, bởi vì Đạo sư là Phật trong thân, ngữ, tâm, thì những hành động của ngài rộng lớn và sâu xa không thể nghĩ bàn. Và ngươi một kẻ ngốc nghếch vô minh, đã quên rằng Đạo sư ở bất cứ nơi nào thì nơi ấy luôn luôn là cõi thanh tịnh Ngonga và Ogmin. Ngài đã dạy pháp trong giấc mộng của tôi và những người đã nghe ngài, Bharima và những người khác, đã chỉ cho biết rằng tôi cần hỏi Đạo sư về câu chuyện đời ngài. Và tôi sẽ đi hỏi.”

Tràn ngập lòng tôn kính phi thường đối với Đạo sư, ông cầu nguyện ngài từ sâu thẳm của lòng mình và từ tinh tủy của xương cốt. Trong khi đắm chìm trong tham thiền ít phút, trong một trộn lẫn giữa giấc ngủ và sự minh bạch, ông thấy năm thiên nữ xinh đẹp đội vương miện và mặc y phục của cõi Ugyen với năm màu trắng, xanh, vàng, đỏ và lục đứng trước ông. Một cô bảo, “Câu chuyện của Milarepa sẽ được kể vào ngày mai, chúng ta hãy đến nghe.”

Cô thứ hai nói, “Ai sẽ thỉnh cầu việc ấy ?” Một cô khác trả lời, “Những đứa con tâm linh vĩ đại sẽ thỉnh cầu việc ấy.” Cùng một lúc, mắt các cô mỉm cười với Retchung.

Cô gái trẻ nói thêm, “Ai cũng sẽ hạnh phúc khi được nghe một giáo lý kỳ diệu như vậy, thế nên mỗi chúng ta nên thỉnh cầu với những lời cầu nguyện.” Và một cô khác tiếp lời, “Những đại đệ tử thỉnh cầu tiểu sử của ngài thì hợp hơn. Công việc của chúng taphổ biếnbảo vệ giáo lý.” Nói xong những cô gái biến mất như một cầu vồng.

Bấy giờ Retchung thức dậy. Mặt trời đã lên rực rỡ trong bầu trời. Ông nghĩ trong lòng, “Tôi hiểu giấc mơ là một mệnh lệnh của Năm Sư Tỷ Bất Tử đưa ra.”

Trong một trạng thái tỉnh giác sinh động, Retchung sửa soạn bữa ăn. Khi đã no, ông phấn khởi đi tìm Đạo sư và thấy ngài đang bao quanh bởi những tăng, đệ tửcư sĩ làm thành một đám đông đầy màu sắc. Retchung đảnh lễ và vấn an Đạo sư. Rồi vẫn quỳ trên hai đầu gối và chấp hai tay, ông bạch với Đạo sư rằng :

“Bạch Đạo sư tôn quý, ngày xưalợi lạc cho chúng sanh chư Phật đời quá khứ đã kể lại câu chuyện mười hai công hạnh của đời các ngài và những việc không thể nghĩ bàn khác của sự giải thoát. Theo cách đó, giáo lý của Phật đã phổ rộng khắp thế gian. Ngày nay, những người cầu đạo may mắn có khả năng được hướng dẫn trên con đường giải thoát bởi vì chư Tổ Tilopa, Naropa, Marpa và những vị thánh khác đã kể lại câu chuyện của chính các ngài.

“Ôi Đạo sư quý báu, vì sự vui sướng của hàng đệ tử, vì những người có phước đức sẽ làm đệ tử của Thầy trong tương lai, và cuối cùng vì sự dẫn dắt những chúng sanh khác trên đường giải thoát, xin ngài nói cho chúng con, ôi Đạo sư Bi mẫn, nguồn gốc của gia đình Thầy, xin nói cho chúng con câu chuyện cuộc đời và những việc làm của ngài.” Ông đã cầu xin như thế.

Bấy giờ, với khuôn mặt tươi cười, Đạo sư trả lời, “Bởi vì con hỏi, hỡi Retchung, ta sẽ chấp thuận lời thỉnh cầu của con.”

“Tên họ của thầy là Khyungpo, tên gia đình của thầy là Josay, và tên thầy là Milarepa. Vào thời trẻ tuổi thầy đã phạm vào những hành vi đen tối. Lúc trưởng thành thầy đã thực hành sự trong trắng. Giờ đây, thoát khỏi cái thiện và ác, thầy đã hủy diệt gốc rễ của hành động gây nghiệp và không còn nguyên nhân cho hành động nghiệp trong tương lai. Nói nhiều hơn thế thì chỉ làm chảy nước mắt và bật lên tiếng cười. Có lợi lạc nào khi nói điều đó với các con ? Ta đã là một lão già. Hãy để cho ta yên ổn.”

Retchung lại lễ lạy và nói lời cầu xin này :

“Ôi Đạo sư Quý báu, ban đầu qua khổ hạnh kinh khủngquyết tâm tràn trề, Thầy đã thâm nhập những chân lý ẩn kín. Bằng cách đem toàn bộ thân tâm trọn vẹn vào thiền định, Thầy đã đạt được tỉnh biết về thật tánh của mọi sự và về trạng thái tánh Không. Giải thoát khỏi những ràng buộc của nghiệp, Thầy vượt khỏi khổ đau tương lai. Đây là điều hiểu biết chung cho tất cả chúng con. Nhưng chúng con đều rất quan tâm đến dòng dõi của Thầy từ họ Khyungpo, đến gia đình Josay của Thầy, đến lý do Thầy được gọi là Mila, và tại sao những hành vi hắc đạo Thầy đã phạm lúc ban đầu và những hành vi thiện lành khi Thầy trưởng thành lại tạo ra nước mắt và nụ cười. Nghĩ đến tất cả chúng sanh với lòng đại bi và không ở trong những chiều sâu của định, xin hãy nói cho chúng con toàn bộ câu chuyện cuộc đời Thầy. Tất cả các bạn, những người anh người chị trên đường đạo và những đệ tử cư sĩ đến đây vì lòng tin vào Ngài, xin hãy cùng tôi thỉnh nguyện.”

Nói thế rồi Retchung lễ lạy. Và khi những đệ tử cao nhất, những đứa con tâm linh, và những tín đồ đã lễ lạy, tất cả đều cất lên lời thỉnh nguyện như Retchung, cầu xin Đạo sư chuyển Bánh Xe Pháp.

Bấy giờ Đạo sư Tôn quý nói rằng :

Vì các con khẩn khoản hỏi ta, ta sẽ không che dấu gì trong cuộc đời của ta, mà sẽ phát lộ nó bây giờ. Bộ tộc thầy từ một dòng dõi lớn làm nghề chăn nuôi gia súc trong miền trung tâm phía Bắc có họ là Khyungpo. Tổ tiên của thầy là một thiền giả có tên là Josay, con của một lama Nyingma.(4) Được hóa thần bổn tôn của ông cảm ứng, ông đắc những thần lực lớn lao nhờ thần chú (mantra).(5) Ông cũng đã viếng thăm những thánh địadanh lam của đất nước.

Ở miền Bắc, trong vùng thượng Tsang, ông được chào đón ở làng Chungpachi. Trong vùng này ông đã hàng phục ma quỷ. Ông rất hay giúp ích bằng những thần lực của mình, đến nỗi ảnh hưởng và sự quan trọng trong những công việc của ông lớn dần. Ông có tên là Khyungpo Josay và sống ở vùng ấy nhiều năm. Người nào có bệnh đều kêu cầu ông.

Một lần nọ, có một con quỷ hung dữ nó không thể đến gần Josay, nhưng không ai chống lại nó nổi. Con quỷ hành hạ một gia đình ít tin tưởng vào Josay. Gia đình đã mời nhiều vị lama đến để thực hiện việc trừ tà. Nhưng con quỷ chỉ cười và chế nhạo, tiếp tục quấy phá họ.

Vào lúc này một người bà con tin Josay âm thầm khuyên nhủ gia đình nên mời ông. Người ấy dẫn câu tục ngữ “Để chữa lành vết thương thì dù mỡ chó cũng dùng.” Và họ đi mời Khyungpo Josay.

Khi ông đến gần con quỷ, Josay giữ cung cách nghiêm nghị và kêu lớn : “Ta, Khyungpo Josay đã đến. Ta sẽ ăn thịt và uống máu của tất cả ma quỷ. Đứng lại !” Vừa nói ông vừa lao tới. Con quỷ quá kinh hoàng và khủng khiếp la lên, “Cha ơi, người ! Cha ơi, người !” (Apa Mila ! Apa Mila !)(6) Khi Josay đến gần, con quỷ nói, “Tôi luôn luôn tránh đường ngài đi, thế nên xin tha mạng cho tôi.” Josay bắt nó thề sẽ không bao giờ làm hại ai rồi tha cho nó đi.

Từ lúc đó, mọi người gọi ông là Mila (người !) để tán dương những đức hạnh của thần lực ông, và Josay giữ cái tên Mila làm tên gia đình. Từ đó con quỷ không làm hại ai nữa, người ta cho rằng nó đã sinh vào một cõi khác.

Sau chuyện đó, Khyungpo Josay lấy vợ và có một đứa con trai. Người con này có hai con trai và đứa con đầu được gọi là Mila Dhoton Senge (Đạo Sư như Sư Tử của Kinh Điển). Người này có một con trai tên là Mila Dorje Senge (Sư Tử Kim Cương). Từ đời này trở đi, mỗi đời chỉ có một người con trai.

Mila Sư Tử Kim Cương là một người chơi xúc xắc rất giỏi và có thể thắng nhiều. Bấy giờ trong vùng có một người xuất thân từ một gia đình quyền thế, một người đánh bạc bịp cũng rất giỏi đánh xúc xắc. Một hôm, để thử tài của Mila Sư Tử Kim Cương, anh ta bắt đầu chơi một ván nhỏ để đo lường đối thủ. Trong ngày đó, anh ta dùng cách để thắng. Không bằng lòng, Mila Sư Tử Kim Cương nói với y, “Ngày mai ta sẽ thắng anh.”

“Tốt lắm”, người kia trả lời.

Kẻ lừa bịp đặt tiền cược, tự để thua ba lần, rồi nói, “Nào, bây giờ tôi phải thắng ông.” Cả hai đồng ý đặt cược toàn bộ ruộng vườn, nhà cửa và tài sản. Họ viết với nhau một giao kèo và chơi bài. Người lừa bịp kia thắng và sở hữu tất cả ruộng vườn, nhà cửa và tài sản.

Thế rồi hai ông Mila, cha và con, bỏ đi khỏi vùng. Đến làng Kya Ngatsa, trong vùng Gungthang gần Mangyul, họ định cư ở đó. Người cha, Mila Đạo Sư như Sư Tử của Kinh Điển, được mời đến nhà dân trong vùng để tụng những sách kinh, tạo hình thờ,(7) che chở họ khỏi mưa đá và cứu trẻ em khỏi những vong hồn xấu. Được mời thỉnh nhiều, ông có được nhiều tặng vật. Vào mùa đông, Sư Tử Kim Cương đi buôn ở nam Nepal ; vào mùa hè, ông theo những người chăn gia súc của miền bắc. Những chuyến buôn nhỏ, ông đi lại giữa Mangyul và Gungthang. Bằng cách ấy hai cha con thu thập nhiều của cải.

Vào thời gian đó, Mila Sư tử Kim Cương yêu một cô gái và lấy nàng. Họ có một đứa con trai mà họ đặt tên là Mila Ngọn Cờ Trí Huệ. Khi đứa con trai này sắp lớn, ông nội của nó là Mila Đạo Sư như Sư Tử của Kinh Điển, chết. Sau khi xong tang lễ, Mila Sư Tử Kim Cương tăng thêm buôn bán và giàu hơn trước.

Vùng lân cận Tsa,(8) có một người tên là Worma có một miếng đất phì nhiêu, hình tam giác. Sau khi cung cấp vàng và hàng hóa từ miền nam và miền bắc, Mila Sư Tử Kim Cương mua miếng đất đó và đặt tên cho nó là Tam Giác Phì Nhiêu.

Kế miếng đất này, có một nền nhà cũ, Mila Sư Tử Kim Cương mua luôn và xây một ngôi nhà lớn. Trong thời gian xây dựng ngôi nhà, Mila Ngọn Cờ Trí Huệ được hai mươi tuổi.

Ở Tsa, trong một gia đình sang quý họ Nyang, có một thiếu nữ rất đẹp tên là Bạch Ngọc. Cô giỏi việc nội trợ và cực đoan trong việc thương bạn bè cô cũng như ghét những kẻ thù của cô. Mila Ngọn Cờ Trí Huệ cưới cô và gọi là Nyangtsha Kargyen (Bạch Ngọc họ Nyang).

Sau đó sự xây dựng ngôi nhà tiếp tục. Trên tầng thứ ba họ xây một cái sân trong với một vựa thóc và một cái bếp dọc một bên. Ngôi nhà này khang trang nhất vùng Kya Ngatsa. Bởi vì nó có bốn cột và tám xà, nó được gọi là Bốn Cột và Tám Xà. Người cha và con sống ở đó, hạnh phúcdanh tiếng.

Không lâu sau đó, nghe danh tiếng của cha và con, một người cháu trai của Mila Đạo Sư như Sư Tử của Kinh Điển tên là Yungdumg Gyaltshen (Ngọn Cờ Chiến Thắng Vĩnh Cửu) với vợ, các con và em là Khyung Tsha Peydon (Đấu Thủ Vinh Quang họ Khyung) ở Chungpachi bỏ quê để đến Kya Ngatsa.

Mila Ngọn Cờ Trí Huệ đã mua nhiều thứ từ phương nam đi lên phía bắc gần Điểm Cọp để bán và xa nhà một thời gian lâu. Bạch Ngọc bấy giờ mang thai. Giữa mùa thu năm Con Rồng Thủy(9) dưới sao Chiến Thắng của chòm sao thứ tám, ngày hai mươi lăm âm lịch, mẹ thầy sinh thầy ra. Bà gởi một bức thư cho cha thầy. Bức thư nói : “Ở đây đang mùa gặt, tôi đã sinh một đứa con trai. Hãy về nhanh để đặt tên cho nó và làm lễ ngày đặt tên.” Khi đưa lá thư, người mang thơ nói với ông tất cả câu chuyện.

Cha thầy ngập đầy niềm vui. Ông kêu lên, “Kỳ diệu thay ! Con ta đã có tên rồi. Trong gia đình ta không bao giờ có hơn một đứa con trai trong mỗi thế hệ. Đứa con trai này được sinh ra cho ta, ta sẽ gọi nó là Tin Lành, vì những tin tức này mang đến niềm vui. Bây giờ ta đã xong công việc, ta sẽ rời đây.” Và ông về nhà. Đấy là như thế nào thầy được đặt cho cái tên Tin Lành. Lễ đặt tên được tổ chức vào một ngày vui vẻ hân hoan.

Thầy được nuôi dưỡng lớn lên với tình thương, và khi chỉ nghe những tiếng nói êm dịu, thầy cũng vui vẻ. Bởi thế mọi người nói, “Thằng bé Tin Lành này quả là khéo được đặt tên.”

Khi lên bốn tuổi, mẹ thầy cho ra đời một bé gái có tên là Gonkyi (Người Che Chở Vui Vẻ). Vì tên trong nhà của nó là Peta, nó được gọi là Peta Gonkyi (Peta Người Che Chở Vui Vẻ). Thầy vẫn còn nhớ mái tóc mượt của hai đứa nhỏ anh em thầy, tóc nó kẹp với đồ bằng vàng, còn tóc thầy với ngọc bích, rũ xuống trên vai.

Trong vùng ấy gia đình thầy được nghe lời với sự kính trọng và có nhiều quyền thế. Bởi thế những nhà quyền quý là những người kết thân và những nông dân là những người phục vụ. Dù gia đình thầy có những ưu thế như vậy, những người dân làm vẫn thường nói nhỏ với nhau, “Những người khác xứ này là những người nhập cư đến vùng này và bây giờ họ bề thế và giàu có hơn bất kỳ ai trong chúng ta. Nhà cửa trang trại và nông cụ và châu báu của đàn ông đàn bà trong đó xem thật sướng mắt.”

Mọi ước muốn của mình đã trọn vẹn, Mila Sư Tử Kim Cương chết. Lễ an táng của ông được cử hành hậu hỹ.

Milarepa nói như thế, và đây là chương thứ nhất, nói về sự sanh ra đời của ngài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8052)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35655)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19778)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11752)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23253)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13411)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5863)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10656)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10397)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10097)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20915)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6223)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6868)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8910)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6034)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18174)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6380)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6761)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6575)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13071)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5898)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7911)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10241)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7900)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9889)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9101)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6008)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24582)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36476)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7758)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11574)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10074)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5253)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5445)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10040)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7903)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9390)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8680)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46609)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6925)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12394)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5830)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14585)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13057)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12499)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14626)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12501)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10985)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9660)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16750)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8502)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5988)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9979)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6400)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11390)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7076)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46790)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13530)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8423)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6882)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9211)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6203)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6931)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17910)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18256)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15872)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6981)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31307)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9599)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7724)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21690)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34218)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33401)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14259)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35728)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13026)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15798)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13705)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33105)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26456)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41475)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40407)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20097)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33744)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29710)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33755)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18918)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22791)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22525)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49049)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11995)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11182)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22568)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18027)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15145)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22731)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16016)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13133)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19769)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12088)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant