Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tiểu sử: đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II

10 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11796)
Tiểu sử: đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II


Cành hoa sen trắng do Ngài Tsongkhapa quăng xuống mặt đất đã rơi vào một nơi thôn dã hẻo lánh của xứ Tanak Dorjeden thuộc tỉnh Tsang. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II - Gendun Gyatso (1475 - 1542) - được sinh ra trong gia đình của một hành giả Du-già ở vùng đó. Cha của Ngài - Kunga Gyatsen - là một Lạt-ma nổi tiếng và mang dòng truyền thừa từ các trường phái Shangpa Kargyu, Shijey và Nyingma. Ông đã nhiều lần được thọ giáo từ đức Đạt-lai Lạt-ma đầu tiên, cả vợ của ông là nữ hành giả Du-già Kunga Palmo cũng thế. Bà hết sức tinh thông trong sự hành trì Mật tông và được công nhậnhóa thân của nữ hành giả Du-già Drowai Zangmo của thế kỷ thứ XIII. Một trong những tiểu sử về đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II đã đưa ra giả thuyết rằng đức Đạt-lai Lạt-ma đầu tiên đã có chủ ý chọn những người đệ tử này làm cha mẹ cho sự tái sinh của Ngài. Cả cha và mẹ của Ngài đều có những giấc mộng đầy ý nghĩa báo trước về sự ra đời của một hài nhi đặc biệt. Người cha thì được Gendun Drub (đức Đạt-lai Lạt-ma đầu tiên) đến thăm trong giấc mơ của ông; còn người mẹ thì mơ thấy một vị Bồ-tát đến khuyên bà hãy đặt tên cho hài nhi trong bụng là Sangye Pel “Người đã tiến đến quả vị Phật”. Theo sự mô tả của người Tây Tạng thì - khi vừa được sinh ra - thân mình hài nhi đã rất sạch sẽ và có tỏa ra những tia hào quang sáng rực. Một lát sau, hài nhi xoay đầu về hướng chùa Tashi Lhunpo, chắp đôi bàn tay tí hon của mình và niệm thần chú Tara. Cậu bé Sangye Pel ngay từ lúc ấu thơ đã thể hiện được cậu chính là tái sinh của Gendun Drub. Lúc mới ba tuổi, cậu đã kể cho cha nghe về câu chuyện tiền kiếp của mình đã qua đời như thế nào; sau khi qua đời, cậu đã đến cung trời Đâu Suất và gặp vị Thầy của mình là Tsongkhapa ở đó, Ngài Tsongkhapa đã chỉ định nơi tái sinh đời kế tiếp của cậu bằng cách quăng cành hoa sen trắng xuống trái đất… Trong một lần tình cờ bị mẹ quở trách, cậu bé cũng đã nói với mẹ rằng cậu sẽ nhanh chóng rời khỏi ngôi nhà này để đến chùa Tashi Lhunpo, nơi đó cậu đã có “một căn nhà vui hơn ở đây nhiều”. Do những điều Ngài đã kể ngay từ khi còn rất bé và nhiều dấu hiệu đặc biệt khác nên khi phái đoàn tìm kiếm tái sinh đang đi tìm hậu thân của ngài Gendun Drub thì họ được hướng dẫn đến nhà của cậu bé Sangye Pel, sau đó cả gia đình Ngài được đưa đến Tashi Lhunpo. Cậu bé liền tuyên bố rằng chính cậu ta là tái sinh của vị Đạt-lai Lạt-ma trước, cậu đã gọi thẳng tên của một số vị Tỳ-kheo đã từng sống ở đó khi Gendun Drub còn sinh tiền và cậu cũng đã nhận ra nhiều dụng cụ cá nhân từ đời trước của mình. Cậu còn chạy đến Pháp tòa đặc biệt dành cho vị Viện trưởng và tuyên bố rằng đó chính là chỗ ngồi của mình. Năm lên bốn tuổi, cậu bé Sangye Pel đã hoàn toàn được thừa nhậnhậu thân của Gendun Drub và được biết đến như đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II.

Từ khi còn rất bé, Ngài đã được học hành dưới sự hướng dẫn của vị Lama Kunga Gyaltsen - cha ruột của Ngài. Ông đã trao truyền cho Ngài nhiều dòng truyền thừa quan trọng từ nhiều truyền thống khác nhau, chủ yếu là của phái Nyingmapa và các giáo lý‎ Mật tông. Hai cha con trở nên hết sức gần gũi và thân thiết. Vào lúc cuối đời mình, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II đã sáng tác một thi phẩm Cầu nguyện rất dài để tưởng nhớ về cha của mình. Còn về phần Kunga Gyaltsen, ông đã đối đãi với cậu con trai một cách hết sức đặc biệt. Vào năm Ngài mười một tuổi, khi thời điểm đã đến, với những biểu chương và y phục của dòng dõi cao quý, vị Đạt-lai Lạt-ma tí hon đã đón nhận cương vị của mình tại Tashi Lunpo. Ngài thọ lãnh năm giới dành cho người trước khi bước vào tập sự và được đặt Pháp danh là Gendun Gyatso. Suốt một khoảng thời gian dài tiếp theo sau đó Ngài đã phải tập trung học hànhthực tập thiền định. Hầu hết, việc giảng dạy cho Ngài đều do vị Viện trưởng Panchen Yeshey Tsemo- vị đệ tử rất thân cận của đức Đạt-lai Lạt-ma trước - đảm trách. Chuyện kể rằng, trong giai đoạn này, khi đang trong thời kỳ nhập thất về pháp hành “Văn Thù Sư Lợi Trắng” vào độ tuổi mười sáu, trí nhớ của vị Đạt-lai Lạt-ma trẻ đã phát triển đến mức Ngài có thể nhớ lại nhiều kiếp trước của mình và có thể thuộc lòng hàng trăm câu kinh trong khoảng thời gian giải lao uống một tách trà. Trong thời niên thiếu, cậu thiếu niên phi thường này đã phải đảm trách những chuyến lưu giảng ở nhiều tự viện và những vùng hẻo lánh-nơi mà tiền thân của Ngài đã từng giảng dạy ở đó. Suốt thời gian Ngài vắng mặt, nhiều sự đố kỵ đã khởi lên trong nội bộ lãnh đạo của Tashi Lhunpo, điều đó khiến cho Ngài buộc phải rời khỏi chùa của mình vào năm 1494. Theo ký sự niên đại của Tây Tạng thì cho rằng, đây là sự can thiệp bí ẩn của Panchen Yeshey Tsemo - Sư phụ của Ngài - người đã mong thúc bách đệ tử của mình dứt ra khỏi cuộc sống đầy đủ tiện nghi ở Tashi Lhunpo để nhắm đến một sứ mệnh vĩ đại hơn.

Rời khỏi Tashi Lhunpo, Ngài được mời đến Drepung - ngôi chùa đầu tiên nhất của phái Gelugpa, vị Lama trẻ đã tiếp tục học tại đó dưới sự giám hộ của Lamyang Tekpa Chojoi, trong suốt thời gian ba năm hầu như không được rời khỏi khuôn viên chùa. Đầu năm hai mươi mốt tuổi, Ngài được thọ Đại giới. Mấy năm tiếp theo sau đó, Ngài nhập thất, tham thiền và đi thuyết giảng nhiều nơi từ trung tâm Tây Tạng cho đến những vùng xa xôi tận miền Nam đất nước. Những sự kiện kỳ diệu đã được ghi nhận trong suốt những chuyến đi lưu giảng ấy, rằng, Ngài đã đạt được một số thành tựu về tâm linh nhờ gặp gỡ một hành giả Du-già lập dị sống ẩn dật từ lâu, Khedrup Noryang Gyatso, ông cũng chính là đệ tử trực tiếp của đức Đạt-lai Lạt-ma trước. Ngài đã thọ nhận thêm nhiều sự truyền đạt từ vị này. Noryang Gyatso giống như một người cha đối với vị Lama trẻ và người ta cho rằng ông chính là người đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc mang đến sự giác ngộ cho đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II. Vào năm 1503, một thời gian ngắn sau khi Ngài trở về Tsang (quê nhà của Ngài) để hành hươngthuyết giảng, thì người cha ruột của Ngài qua đời. Thật vô cùng may mắn vì ông đã có cơ hội được trải qua sự thiền định chung với Ngài trong những khoảnh khắc cuối đời và cùng ôn lại những giáo pháp truyền thừa mà ông đã từng giảng khi Ngài còn thơ ấu. Suốt một thập niên tiếp theo sau khi cha qua đời, Ngài đã trải qua những mùa đông ở Lhasa và hầu hết thời gian còn lại Ngài đã hành hương, nhập thất, thiền địnhthuyết giảng theo sự thỉnh cầu phát sinh trên suốt lộ trình của Ngài. Pháp hội do Ngài thuyết giảng thường có đến vài nghìn thính chúng.

Những sự kiện tiếp theo đã xảy ra khiến cho đức Đạt-lai Lạt-ma trở thành một người đáng nhớ nhất trong lòng những người dân Tây Tạng. Theo một số điều tiên tri trong các tác phẩm của Padmasambhava (Liên Hoa Sanh) và Atisha thì một hóa thân của Avalokitesvara (đức Quán Thế Âm) sẽ xây một ngôi chùa bên bờ hồ Lhamoi Latso (hồ Nữ Thần), cách Lhasa khoảng chín mươi dặm về phía Đông Nam. Hồ này từ lâu đã là một điểm hành hương cho khách thập phương chiêm bái. Với hàng loạt những nghi lễ đặc biệt, Gendun Gyatso đã truyền vào hồ một năng lượng phi thườngnăng lượng này sẽ trở thành một nguồn kinh nghiệm tâm linh cho tất cả những ai đến thăm viếng hồ với một tấm lòng thanh tịnhthiền định bên cạnh hồ nước thì có thể nhìn vào nước hồ và tiên đoán được. Tất cả những sự kiện ấy xảy ra sau khi Gendun Gyatso đáp lại lời thỉnh cầu của vị thủ lĩnh vùng này quyết định xây một ngôi chùa làm nơi ẩn dật để tu thiềnan cư trong mùa hạ tại Gyal Metoktang trên bờ hồ và đặt tên là chùa Chokhor Gyal. Một năm sau, vào 1511, các nghi lễ chính thức đã diễn ra. Kể từ đó, hồ Nữ Thần đã trở thành điểm hành hương của hàng trăm nghìn người, chủ yếu là người châu Á. Tất cả họ đều hy vọng được nhìn thấy những cảnh tượng xuyên qua nước trong hồ để có thể phát hiện ra những bí ẩn về cuộc đời của mình. Hồ nước này cũng đã từng được tham khảo để trợ giúp cho công cuộc tìm kiếm những Lama tái sinh, kể cả các hậu thân của đức Đạt-lai Lạt-ma. Vào thời gần đây, ngài Regent Reting Rinpoche cũng đã nhìn thấy được những cảnh tượng trong hồ và điều kỳ diệu ấy chính là phương tiện đưa đến sự xác định chính xác nơi tái sinh của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV hiện nay.

Vào năm 1511, trong thời gian xây dựng chùa Chokhor Gyal, Gendun Gyatso nhận được lời yêu cầu từ vị Thầy trước kia của mình - Panchen Yeshey Tsemo - là trở về để đảm đương cương vị lãnh đạo ở Tashi Lhunpo. Sau gần hai mươi năm trôi dạt tha phương, Ngài đã trở về, được tấn phong và đảm nhận lại chức vụ trước kia của mình (cương vị của đức Đạt-lai Lạt-ma đầu tiên) và tiếp tục sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh. Xưa kia, lúc Ngài còn ở đó, số Tăng chúng ở chùa nhiều hơn gấp đôi và rất có uy tín nhờ vào tiếng tăm, sự hiện diện và sự nỗ lực của Ngài. Ngài cũng tiếp tục trở lại học với vị Thầy cũ của mình cho đến khi vì sự thúc bách của việc hoàn thành công trình xây cất ở chùa Chokhor Gyal - nên Ngài phải ra đi.

Từ lúc Ngài hai mươi mốt tuổi và hoàn tất việc học hành ở Drepung, mỗi năm Gendun Gyatso rất hiếm khi được ở đó khoảng một hoặc hai tháng vì Ngài bận nhiều chuyến đi thuyết giảnghành hương ở các nơi. Tuy nhiên, kể từ năm 1517 khi Ngài chấp nhận cương vị lãnh đạo (thống lãnh ngai “Sư Tử Vô Úy”) của Drepung - ngôi chùa lớn nhất và uy tín nhất của phái Gelugpa - thì sự kiện này đã thay đổi, Ngài thường xuyên có mặt ở đó để thuyết giảng. Ngôi chùa này đã liên kết tất cả trung tâm châu Á nên hầu hết các môn sinhhọc giả nổi tiếng ở tất cả các chùa chiền trên khắp Tây Tạng và các nơi khác đều tựu về đó để học hỏi, nghiên cứu.
Sau khi trở thành vị lãnh đạo của Drepung, một trong những việc đầu tiên Ngài thực hiệnhội ý với vua Gongma để đạt lại quyền chỉ đạo toàn bộ Monlam Chenmo - Đại Lễ Hội Cầu Nguyện. Nhờ vậy, lễ hội này được hoàn trả lại cho phái Gelugpa. Những người đầu tiên đã khai mạc nên lễ hội này chính là những vị đã noi theo trí tuệ sáng tạo của Ngài Tsongkhapa thuộc phái Gelugpa. Phái Karmapa đã cự tuyệt lễ hội này từ mười chín năm trước. Sự khôi phục lại những quyền lợi này được xem là một trong những thành tựu lớn nhất trong cuộc đời của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II.

Đại Lễ Hội Cầu Nguyện là nét nổi bật nhất của ngày Tết Tây Tạng, diễn ra suốt hơn hai đến ba tuần lễ ở Lhasa. Đối với người dân Tây Tạng, lễ hội “thể hiện sự hiện diện thực sự của truyền thống giác ngộ trong thế gian và những năng lực đáng ca ngợi do lễ hội tạo ra được xem là yếu tố chính trong sự duy trì nền hòa bình và phồn vinh của thế giới”. Người Tây Tạng rất giống với người Hopi của New Mexico, họ tự xem mình như những người góp phần vào hạnh phúc của vũ trụ và là những người gìn giữ nền hòa bình cho cộng đồng thế giới. Vì vậy, sự can thiệp vào lễ hội với mục đích môn phái và chính trị sẽ bị coi là một sự vi phạm nghiêm trọng.

Sự mâu thuẫn xảy ra trong lễ hội dường như do những mưu đồ của Sharmapa Tulku thứ IV - Chokyi Drakpa - người đã xúi giục nên những sự kình địch về môn phái nhằm mục đích đề cao vị trí của chính ông ta trong giới thượng lưu quý tộcTây Tạng. Hầu như âm mưu của ông ta chủ yếu là chia rẽ phái Karma kargyu - môn phái của chính ông ta - ra làm hai phe. Đối thủ chính của ông là Mikyu Dorjee - Karmapa Tulku thứ VIII - người đã có những mối quan hệ hết sức tử tế và nhã nhặn với phái Gelupa.

Từ năm 1518, kéo dài hai mươi bốn năm sau cho đến khi qua đời, Gendun Gyatso luôn đảm nhận vai trò là người chủ trì của “Đại Lễ Hội Cầu Nguyện”. Vị Hoàng đế của Lhasa rất cảm kích tư cách của vị Đạt-lai Lạt-ma thứ II về những sự kiện này nên đã cúng dường và xây cho Ngài một dãy tòa cao ốc đặt tên là “Ganden Phodrang” trong khuôn viên chùa Drepung. Dinh thự này trở thành nơi cư trú chính của Ngài ở Lhasa và cho cả các vị tái sanh của Ngài sau này. Cái tên “Ganden Phodrang” của dinh thự này cũng đã trở thành tên của chính phủ Tây Tạng mãi cho đến thời kỳ của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ V. 

Cũng giống như tiền thân của mình, đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II đã đặt và dựng rất nhiều pho tượng, chủ yếu là ở chùa Chokhor Gyal. Ngài đã quyên góp vàng từ khắp nơi trên đất nước Tây Tạng và đúc thành một pho tượng của đức Phật Di Lặc to bằng người thật. Các pho tượng này không chỉ đơn thuần là để trang trí, thờ phụng ở chốn thiền môn mà còn là để tạo nên một tinh thần hòa hợp, đoàn kết giữa các môn đồ, Phật tử, bởi lẽ các pho tượng ấy được tạo ra nhờ vào sự đóng góp chung của tất cả tín đồ. Người Tây Tạng đã xem những pho tượng thần thánh ấy như những huyết mạch của nguồn năng lượng có thể chuyển hóa nghiệp báonăng lực của con người và tạo ra phước báu cho toàn thể vũ trụ. Sự xuất hiện của các vị Đạt-lai Lạt-ma đã đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền bá những hoạt động như thế trong nền văn hóa Tây Tạng.

Vào năm 1525, Gendun Gyatso nhận chức vụ Viện trưởng ở chùa Sera, cương vị lãnh đạo của Ngài đã giúp cho số Tăng chúng và sự thịnh vượng của chùa ngày càng gia tăng. Lúc bấy giờ, Ngài đã là vị lãnh đạo tinh thần của bốn ngôi chùa lớn và tham gia vào hàng loạt chương trình giảng dạy và thiền định liên tục. Tuy nhiên, Ngài cũng đã sáng tác một số lượng rất lớn. Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ XIV hiện nay thường hay nhắc đến đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II: là một nhà văn viết rất nhiều - những sáng tác của Ngài bao gồm trong bốn tuyển tập với hàng vài trăm mục như thơ, tiểu luận, kinh cầu nguyện, hướng dẫn về thiền…- và còn nói rằng: “Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II là người vĩ đại nhất trong số tất cả những vị Đạt-lai Lạt-ma”, một phần là nhờ sự uyên bác của Ngài. Những sáng tác ấy khác với những sáng tác của tiền thân của Ngài. Các sáng tác của vị đầu tiên thường rất dài, các luận thuyết chi tiết tập trung chủ yếu vào xu hướng những truyền thống Mật tông Kim Cang thừa, năm chủ đề chính của Kinh Tạng, các học thuyết của phái Kadampa (dựa trên các học thuyết do Ngài Atisha giới thiệu) và các truyền thống Tân Kadampa (dựa trên những cải cách của Ngài Tsongkhapa). Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II, rõ ràng là đã nhận thức được về các sáng tác tiền thân của Ngài, nên đã chọn lối viết những bài tiểu luận ngắn, tập trung chuyên đề vào các dòng truyền thừa và các pháp hành của những trường phái ít nổi tiếng hơn. “Ngài dường như muốn nhằm vào những chỗ còn ẩn náu của Phật giáo Tây Tạng, những khía cạnh mà tiền thân của Ngài không có thời gian để viết đến” - học giả Mullin đã nhận định như thế. Còn một nét đặc trưng khác trong các sáng tác của vị thứ II, đó là Ngài đã sáng tác một cách tự phát những vần thơ, những tác phẩm thơ huyền bí, hay còn gọi là Nyam gur, đã nảy sinh vượt lên trên kiến thứckinh nghiệm tâm linh của Ngài. Ngài đã ký‎ những tên đặc thù trên các tác phẩm ấy như Nankhai Naljorpa (Hành giả Du-già Vũ trụ); Yangchen Sheypai Dorje (Kim Cang - tiếng cười du dương); Tranguyon Gendun Gyatso (Người Hành Khất điên Gendun Gyatso). Phần lớn lối viết của Ngài thuộc thể thơ ca, tiểu luận hay những luận thuyết đi thẳng vào đời sống tâm linh của những người mộ đạo.

Chủ trương “không môn phái” của đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II đối với Phật giáo cũng đã được phản ánh trong sự giảng dạy cũng như trong các tác phẩm của Ngài. Ngài được biết đến như một bậc Đạo sư Hoàng Mạo (Đạo sư Mũ Vàng) không có xu hướng môn phái. Sự thực hành thiền định cá nhân của Ngài đã được rút tỉa ra từ nhiều trường phái của Phật giáo Tây Tạng, những mối quan tâm về các học thuyết và sự nghiên cứu của Ngài cũng thế. Ngài đã học với hơn mười vị Thầy nổi tiếng, kể cả cha của Ngài. Về sau, vị Thầy chính thức Khedrup Norzang Gyatso đã hướng dẫn Ngài tu tập đạt được Sunyata (Tánh Không) - sự liễu ngộ tối thượng về bản thể Chân như của vạn pháp.

Một thời gian trước lúc viên tịch, Ngài đã chuẩn bị cho các đệ tử biết một số sự kiện như: ám chỉ rằng Ngài sắp sửa ra đi; đưa ra những dấu hiệu cho biết là Ngài sẽ tái sinh ở đâu; Ngài cũng đã tuyên bố vài lần trước khi mất là Ngài sẽ sớm đi về miền Nam, nơi đó Ngài có một số việc cần phải làm. Trước phút lâm chung, Ngài đã bày tỏ nguyện vọng là sẽ trở lại để công việc của Ngài được tiến triển xa hơn. Vào năm 1542, ở tuổi 68, đúng thời điểm đã chọn, Gendun Gyatso đã viên tịch trong tư thế đang tọa thiền. Theo tiểu sử viết về Ngài, sau khi hỏa táng, người ta phát hiện ra quả tim của Ngài đã được kết tinh lại thành hình của một đức Phật dưới dạng một vị thần Mật Tông.

Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ II đã tiếp tục công việc của đức Đạt-lai Lạt-ma đầu tiên trong sự nghiệp truyền bá Chánh pháp. Cũng như bậc Đạo sư lỗi lạc trước, thời kỳ hưng thịnh và thanh thế của Ngài đã mang lại những vận may cho phái Gelugpa cũng như cho dòng dõi Đạt-lai Lạt-ma sau này ở trung tâm và miền Nam Tây Tạng. Trước khi Ngài viên tịch, có vài vị Đạo sư có thế lựcTây Tạng, họ không phải là đệ tử của Ngài, không cùng học với Ngài, vì thế đã không nhận các lễ quán đảnh Mật tông từ Ngài. Nhờ vào những nỗ lực của Ngài, quyền điều khiển “Đại Lễ hội Cầu nguyện” của phái Gelugpa đã được khôi phục. Mặc dù vậy, họ vẫn tiếp tục sự ngược đãi đối với phái Gelugpa, vẫn sử dụng quyền lực chính trị và sự phát triển toàn diện của họ để giám sát và thao túng bộ máy chính quyền. Tốc độ phát triển này đã sớm nhảy vọt theo cấp số nhân. Do vậy, sự tái xuất hiện của các hậu thân Đạt-lai Lạt-ma là một điều vô cùng cần thiết đối với số phận của nhân dân Tây Tạng.

§ Biển xanh
Phỏng dịch theo phần: “A History of Dalai Lamas within the Context of Their Times” của tác giả Ardy Verhaegen.

(Tara là tên của vị thần hoá thân từ giọt nước mắt Từ Bi của đức Quán Thế Âm. Theo truyền thuyết của Phật giáo Tây Tạng, đức Quán Thế Âm vì quá xót thương cho vô số chúng sanh đang chịu cảnh đau khổ lầm than trong vòng luân hồi sanh tử nên bỗng dưng hai giọt nước mắt Từ bi của Ngài đã rơi xuống và hoá thành hai vị thần Tara: Green Tara (thần Tara Xanh) và White Tara (thần Tara Trắng). Hai vị thần này đồng phát nguyện sẽ cùng với đức Quán Thế Âm thực hành hạnh nguyện “cứu khổ” cho chúng sanh muôn loài. Thần chú hộ trì của thần Tara là: Om tare tutare ture sva-ha - lời người dịch).

(Theo truyền thống Tây Tạng thì đức Đạt Lai Lạt Ma chính là hóa thân của Bồ Tát Quán Thế Âm - lời người dịch)

Nguồn: Tập San Pháp Luân 21


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8019)
Mỗi khi tâm niệm đến hành trạng Thiền sư Vạn Hạnh, chúng ta không thể không đề cập đến con ngườisự nghiệp Lý Công Uẩn.
(Xem: 35556)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 19694)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11705)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 23192)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13353)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 5845)
Nhiều người tu tập Phật Giáo cảm thấy hoang mang khi nghe nói có các vị thầy Phật Giáo không tuân thủ một số giới luật, chẳng hạn như uống rượu, sống chung với các thành viên khác trong tập thể tu hành
(Xem: 10620)
Miền Nam Ấn Độ trước đây, Có gia đình hào phú đầy uy danh, Hai con tư chất thông minh, Ca Chiên Diên với người anh của chàng...
(Xem: 10358)
Bảy vương tử dòng Thích Ca, Đợt đầu quyết chí xuất gia lần này, A Nan có mặt trong đây, Tuổi thời nhỏ nhất nhưng đầy tương lai...
(Xem: 10054)
A Na Luật được sinh ra, Ở trong vương tộc rất là nổi danh, Thật thà, hoạt bát, thông minh, Múa ca, âm nhạc quả tình tinh thông...
(Xem: 20867)
Ngài có lời đại nguyện rằng: Nếu Ngài chưa độ hết chúng sanh, thì Ngài không chứng quả Bồ Đề, và nếu sự thọ khổ trong địa ngục hãy còn, thì Ngài thề không chịu thành Phật.
(Xem: 6206)
Đức Đại Lão Hòa Thượng Chánh Thư Ký Xử Lý Viện Tăng Thống GHPGVNTN là thế hệ thứ 8 của phái Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán, Pháp danh Trừng Nguyên, Hiệu Đôn Hậu.
(Xem: 6856)
Hội Phật Học Nam Việt được thành lập vào năm 1950 tại Sài Gòn do sự vận động của cư sĩ Mai Thọ Truyền. Ban đầu, hội đặt trụ sở tại chùa Khánh Hưng, và sau đó ít lâu, tại chùa Phước Hòa.
(Xem: 8899)
Tưởng nhớ đến một bậc Thầy khả kính của nhiều thế hệ Tăng Ni Việt Nam; Môn đồ pháp quyến thực hiện tập kỷ yếu này
(Xem: 6018)
Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
(Xem: 18157)
Hòa Thượng THÍCH MINH TÂM (1940-2013) - Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 6354)
Sau khi Ta diệt độ khoảng hơn một trăm năm sau, em bé vừa rồi cúng dàng nắm cát cho Ta, đời sau sẽ làm vua tại thành Ba-liên-Phất...
(Xem: 6733)
Một thời, đức Phật ngự tại vườn Lộc Uyển nước Ba La Nại, bấy giờ, đức Phật mới thành đạo chưa được bao lâu, khi đó Vua Ba Tư Nặc mới nối ngôi.
(Xem: 6556)
... Từ đó tôi hoài bảo một cái mộng: "làm sao, sau này mình sẽ đóng một cây thang giáo lý" (tức là bộ "Phật Học Phổ Thông", ngày hôm nay).
(Xem: 13022)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 5874)
Trần Tung (còn gọi là Trần Quốc Tung) hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, sinh năm Canh dần 1230, mất ngày 1 tháng 4 năm Tân Mão 1291, quê ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường
(Xem: 7892)
Ban Sưu tập tu viện Quảng Hương Già Lam đã dày công sưu tập các công trình về kinh, luật, luận, thi kệ và tản văn của Đại lão Hòa thượng tập thành bộ "Toàn tập Tâm Như - Trí Thủ"...
(Xem: 10207)
Cái gương quên mình cầu pháp của ngài Pháp Hiển đã làm mối khuyến khích cho các vị khác, trong đó có ngài Huyền Tráng... HT Thích Trí Quang
(Xem: 7875)
Pháp sư Ấn Thuận thế danh là Trương Lộc Cần, sinh năm 1906 thuộc tỉnh Triết Giang, huyện Hải Ninh... Như Nguyệt
(Xem: 9872)
Ngài sinh vào ngày 17 tháng 7, 1898 tại Kotahena, ngoại ô thành phố Colombo, thủ đô của nước Tích Lan (Sri Lanka)... Bình Anson
(Xem: 9084)
Đại hội Phật giáo Việt Nam 1964 suy tôn Ngài lên ngôi vị Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất... Môn Đồ Pháp Quyến
(Xem: 5986)
Thiền Sư Dogen (Đạo Nguyên Hy Huyền) Sơ Tổ Tông Tào Động Nhật Bản... Tâm Thái
(Xem: 24553)
Hòa Thượng vốn sinh trong một gia đình trung nông, phúc hậu nhơn từ, có nề nếp đạo đức vững chắc và kính tin Tam Bảo.
(Xem: 36396)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 7730)
Gương Bát Nhã thấm nhuần vạn thể, Tâm Kim Cương triệt phá lầm mê, An nhiên, thật tướng Bồ Đề, Khứ lai tự tại, đi về Chơn Như...
(Xem: 11549)
Ông Bàng Uẩn (P'ang Yun) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Tâm Thái
(Xem: 10046)
Hòa thượng thế danh Lê Diêu, Pháp danh Như Lễ, Pháp hiệu Thích Huyền Dung... Nhiều Tác Giả
(Xem: 5229)
Hầm Lửa Hóa Thành Ao Sen là Chuyện Trưởng Giả Thất Lị Cấp Đa... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 5421)
Tì kheo ni Pháp Dữ đã được đức Thế Tôn khen ngợi là vị thuyết pháp đệ nhất trong Ni chúng... Hạnh Cơ dịch
(Xem: 10004)
Đại Sư Pháp Tạng (643-712) là tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, Pháp Tạng có nghĩa là kho tàng của chánh pháp.
(Xem: 7885)
Thành tâm nhớ tưởng bậc Tôn Sư, cố Đại Lão Hòa Thượng THÍCH HUYỀN QUANG, Đệ Tứ Tăng Thống GHPGVNTN... Hạnh Cơ
(Xem: 9369)
Tổ tiên của ngài vốn ở nước Khương-cư (Sogdiana), nhưng đã mấy đời sống ở Thiên-trúc. Thân phụ ngài, nhân làm nghề buôn bán mà theo thuyền buôn sang Giao-chỉ sinh sống... Hạnh Cơ
(Xem: 8660)
Đại sư Đạo An họ Vệ, sinh vào năm thứ 3 niên hiệu Kiến-hưng (314) đời vua Mẫn đế thời Tây-Tấn... Nguyên tác Hán văn của cư sĩ Hồng Tu Bình; cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 46529)
Có thể nói, không có một Tôn giáo nào, một hệ tư tưởng nào đề cao con người và đặt niềm tin vào con người như là đạo Phật... HT Thích Minh Châu
(Xem: 6906)
Tên tiếng Phạn của Ngài là Avalokitesvara, dịch âm ra Hán ngữ là A-phược-lô-chỉ-đê-thấp-phạt-la, dịch nghĩa là Quán Thế Âm... Hạnh Cơ
(Xem: 12317)
Phật giáo không thể không có mối liên hệ theo nhiều dạng khác nhau với giai cấp phong kiến Trung Quốc, đặc biệt là các vị Đế Vương... Nguyên tác: Vương Chí Bình; Đào Nam Thắng dịch
(Xem: 5799)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 14511)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 12994)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12439)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14565)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 12433)
Tịch Thiên (Śāntideva, tục danh: Sāntivarman) là một triết gia, một Tăng sĩ Phật giáo Đại thừa sống vào khoảng cuối thế kỷ VII và nửa đầu thế kỷ VIII Tây lịch... Thích Nguyên Hiệp
(Xem: 10956)
Tổ Phước Huệ, Tăng cang Hòa thượng húy thượng Ngộ hạ Tánh, tự Hưng Long, hiệu Phước Huệ. Thế danh Nguyễn Văn Cự, sinh ngày mồng 8/4/Ất Hợi (1875) tại làng Trung Kiên, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 9638)
Tổ sư Minh Hải - Đắc Trí - Pháp Bảo thường được nói đến với dòng Thiền Lâm Tế Chúc Thánh... ĐĐ Thích Như Tịnh
(Xem: 16701)
Nếu bản Việt ngữ của pho sách “Đạo Ca Milarepa” đến được tay bạn đọc thì phải nói đây chính là đến từ tình yêu thương và sự gia trì vĩ đại của đức Milarepa cùng chư Thầy Tổ... Đỗ Đình Đồng
(Xem: 8482)
Đức Đạt Lai Lạt Ma Con Trai Tôi (Dalai Lama, My Son) Tự truyện của mẫu thân Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14... Tác gả: Diki Tsering; TT Thích Nguyên Tạng dịch Việt
(Xem: 5972)
Không những đạo Phật do chư cao tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, v.v... truyền sang vùng Ðông Nam Á, mà các chư tăng trong vùng địa phương cũng liên tiếp nối nhau sang đất Phật... Thích Hằng Ðạt
(Xem: 9959)
Đại thiền sư Hư Vân, tuổi đời được một trăm hai mươi tuổi. Tăng lạp được một trăm lẻ một tuổi.
(Xem: 6376)
Hòa Thượng, thế danh là Đỗ Xuân Hàn, húy Thượng Tâm Hạ Thị hiệu Thiện Minh, tự Trí Nghiễm. Sinh năm 1921 tại làng Bích Khê, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị.
(Xem: 11353)
Hám Sơn Đại Sư Tự Truyện - Thích Hoằng Đạt dịch
(Xem: 7047)
Những ai đã đạt được lòng từ bình đẳng tuyệt đối như vậy thì chẳng những đã đạt được an vui cho chính bản thân mình mà tình thương ấy còn lan toả đến tất cả... Thích Phước An
(Xem: 46714)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 13505)
Ngài họ Lê, húy Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán, sinh ngày 18 tháng 11 năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạc Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên.
(Xem: 8397)
Cố Thượng tọa thế danh Đỗ Văn Nghiệp, sinh ngày 06 tháng 02 năm 1943 (năm Quý Mùi) tại làng Giang Hải, xã Phan Rí Cửa, quận Hòa Đa, tỉnh Bình Thuận.
(Xem: 6861)
Như tất cả chúng ta đều biết Tổ Khánh Anh là người xuất thân từ Quảng Ngãi và từ những năm 1916 Ngài đã quy y Tam Bảo tại chùa Cảnh Tiên... HT Thích Như Điển
(Xem: 9179)
Tổ sư họ Tạ, húy Nguyên Thiều, tự Hoán Bích, sinh giờ Tuất, ngày 15 tháng 5 năm Mậu tý, tức là ngày 08 tháng 7 năm 1648, tại huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, Quảng Đông.
(Xem: 6185)
Báo Viên Giác tại Hannover, Đức Quốc, Số Đặc Biệt để Tưởng Niệm Cố HT Thích Minh Tâm
(Xem: 6911)
Bài thuyết trình trong Ngày Về Nguồn Lần Thứ VII – Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư, Từ 27 tháng 9 đến 29 tháng 9, 2013 - Chùa Cổ Lâm, Seattle, tiểu bang Washington... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 17856)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18177)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 15804)
Kỷ Yếu Về Cội - Là tư liệu quý giá về các Phật Học Viện Trung Phần: Báo Quốc, Phổ Đà, Hải Đức, Linh Sơn, Quảng Hương...
(Xem: 6959)
Danh Tăng Việt Nam Sinh Vào Năm Tuất - Tâm Không Vĩnh Hữu sưu tầm và biên soạn
(Xem: 31253)
Tập truyện này không nhắm dẫn chúng ta đi vào chỗ huyền bí không tưởng. Chỉ cần trở lại với tâm bình thường, một tâm bình thường mà thấy đất trời cao rộng vô cùng.
(Xem: 9582)
Đại sư Trí Khải sinh năm 538, vào thời đại mà sau này các sử gia gọi là Nam Bắc triều (220-589)... Tuệ Hạnh
(Xem: 7695)
Nhờ tinh thần tinh tấn tu học và không ngừng trau dồi kiến thức, cư sĩ Chánh Trí đã tạo cho mình vốn hiểu biết giáo lý Phật đà sâu rộng...
(Xem: 21626)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 34177)
Chính các ngài là những cánh tay đắc lực nhất đã giúp đức Phật hữu hiệu nhất trong công việc hoàng pháp độ sinh...
(Xem: 33325)
Phật hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm, sinh ngày 07/12/1258 (11/11/Mậu Ngọ), con trưởng của Vua Trần Thánh Tông và Hoàng Thái hậu Nguyên Thánh.
(Xem: 14241)
Hòa Thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 tại Quảng Nam. Xuất gia năm 1946 với Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết tại chùa Tường Vân, Huế...
(Xem: 35670)
Thiền sư Nhật Dōgen Kigen (Đạo Nguyên Hy Huyền) (1200-1253), cũng thường được gọi là Eihei Dōgen, là vị tổ sáng lập tông Tào Động (Nh: Sōtō) tại Nhật.
(Xem: 13010)
Thành Kính Tưởng Niệm Hòa Thượng THÍCH GIÁC LÂM (1928 - 2012)
(Xem: 15781)
Hòa thượng Thích Quảng Đức, Pháp danh Thị Thủy, Pháp tự Hành Pháp và thế danh là Lâm văn Tức, sinh năm 1897 tại làng Hội Khánh, quận Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa...
(Xem: 13691)
Huyền Trang - Nhà Chiêm BáiHọc Giả (Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar) - Anh ngữ: HT. Thích Minh Châu - Việt dịch: Ni sư Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 33044)
Ngài Dudjom Rinpoche sinh năm 1904, trong một gia đình cao quý ở miền Đông Nam Tây Tạng tỉnh Pemako, một trong bốn “vùng đất tiềm ẩn” của Đức Liên Hoa Sinh.
(Xem: 26381)
Đức Kyabje Trulshik Rinpoche, Ngawang Chökyi Lodrö, là hóa thân của ngài Zhadeu Trulshik Rinpoche ở Dzarong, và cũng là hóa thân của đức Kim Cương Thủ và đức Văn Thù.
(Xem: 41421)
Truyện kể về những bậc thánh siêu phàm trong Phật Giáo - Tác giả: Ngô Trọng Đức; Dịch giả: Từ Nhân
(Xem: 40361)
Tăng bảo, nương vào phần tự giác của pháp làm cơ sở để kiến lập xã hội hòa bình, nhân gian Tịnh độ... Thích Đồng Bổn
(Xem: 20056)
HT Thích Như Điển - Phương Trượng Chùa Viên Giác, Hannover, Đức Quốc
(Xem: 33713)
HT Thích Nguyên Siêu trụ trì Chùa Phật Đà, San Diego và Tu Viện Pháp Vương, Escondido, Hoa Kỳ
(Xem: 29684)
Sau khi Mahà Moggallàna nhận được những lời giáo huấn do Đức Phật đích thân truyền dạy (ghi trong Anguttara Nika(ya VIII, 58), ngài liền vững tâm hành đạo với một quyết tâm bất thối.
(Xem: 33733)
Lịch sử của vị đại đệ tử này cũng chẳng kém phần đạo vị và rất xứng đáng cho mọi người noi gương, vì con đường giải thoát của Ngài đã đi cũng lại là con đường Bát Chánh của chư Phật.
(Xem: 18877)
Thiền Tăng A Nậu Lâu Ðà cũng là Sa môn có đủ công phu tu luyện để dùng "Thiên nhãn" theo dõi "Tịnh Quang" của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni khi đấng Toàn Giác thanh thoát xả báo thân...
(Xem: 22720)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 22447)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 49007)
Thầy Tuệ Sỹ là một học giả uyên bác về Phật Giáo Nguyên ThủyĐại Thừa. Thầy làm nhiều thơ, chơi dương cầm, viết một số truyện ngắn đặc sắc.
(Xem: 11968)
Hòa Thượng Họ Đinh, húy Tiến Đạm, Pháp Hiệu Thanh Đạm, đã viên tịch vào lúc 02 giờ sáng ngày Chủ Nhật 04 tháng 12 năm 2011 (nhằm ngày 10 tháng 11 năm Tân Mão).
(Xem: 11164)
Hoài Tố sinh năm 625, vốn là người họ Phạm, viên tịch năm 698, ngay tại chùa Thái Nguyên, Trường An. Năm đó, ông 74 tuổi... Bằng Hư
(Xem: 22522)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 18009)
Vài Hình Ảnh Kỷ của Niệm HT Thích Hạnh Đạo - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 15120)
Thế danh: Nguyễn Đình Mân, Pháp danh: Thị Uẩn, Pháp tự: Hạnh Đạo, Pháp hiệu: Thuần Phong, Đời thứ 42 thuộc dòng Thiền Lâm Tế.
(Xem: 22690)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 16004)
Hòa Thượng húy thượng Nguyên hạ Bàng - Đại Nguyện tự Chí Năng, hiệu Giác Hoàng đã viên tịch vào ngày 7 tháng 7 năm 2011
(Xem: 13118)
Là một trong những thiền sư đầu tiên tại Mỹ, Philip Kapleau được xem là người có công lao đặc biệt quan trọng trong việc truyền bá đạo Phật nói chung và thiền tông nói riêng...
(Xem: 19725)
Kỷ Yếu Tưởng Niệm Hòa Thượng Thích Quảng Tâm (1947-2010) - Tăng Chúng Đệ Tử Tu Viện Vĩnh Đức
(Xem: 12069)
Pháp sư Tịnh Không được xem là người có công phục hưng Tông Tịnh Ðộ trong hiện đại, Ngài đã cống hiến cả cuộc đời mình cho việc nghiên cứu, thực hànhtruyền bá pháp môn Tịnh Ðộ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant